Chia sẻ thông tin quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại ĐBSCL

Hai tác nhân chính được xác định gây ra sụt lún tại Đồng bằng sông Cửu Long có quy mô lớn, ở cấp khu vực là quá trình nén tự nhiên và khai thác nước ngầm.
Chia sẻ thông tin quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại ĐBSCL ảnh 1Hiện tượng sạt lở xảy ra tại Cần Thơ. (Ảnh: TTXVN)

"Sụt lún đất là vấn đề cấp bách ở Đồng bằng sông Cửu Long. Số liệu từ Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy đồng bằng đang sụt lún 1 cm/năm, với tốc độ trung bình lên tới 5,7cm/năm tại một số địa điểm, trong khi mực nước biển dâng là 3-5mm/năm."

Đó là nhận định của Thạc sỹ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long tại hội thảo trực tuyến chia sẻ thông tin về dự án "Quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long," diễn ra ngày 26/11.

Dự án do Chính phủ Hà Lan thông qua Đại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường hợp tác thực hiện tại 4 tỉnh, thành: Bến Tre, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang.

Mực nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long đang thấp nhất kể từ năm 1991

Thông tin từ dự án cho thấy tốc độ sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn mực nước biển dâng tuyệt đối. Điều này cho thấy tốc độ mực nước biển tương đối chủ yếu là do sụt lún đất; kết hợp địa hình với cao trình thấp của đồng bằng càng làm khu vực dễ bị tổn thương. Nếu tình trạng trên tiếp tục xảy ra, phần lớn diện tích của đồng bằng có thể sẽ nằm dưới mực nước biển trung bình vào cuối thế kỷ XXI.

Hai tác nhân chính được xác định gây ra sụt lún ở quy mô lớn, ở cấp khu vực là quá trình nén tự nhiên và khai thác nước ngầm.

Về sự nén tự nhiên, tốc độ nén cao nhất là dọc theo bờ biển, cách duy nhất để bù đắp cho sự mất mát về độ cao này là sự bồi đắp phù sa mới.

Còn việc hạ thấp mực nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long do khai thác nước ngầm gia tăng dẫn đến giảm áp lực nước lỗ rỗng. Quá trình này dẫn đến tăng tốc độ lún lên đến vài cm/năm.

[Tăng cường tìm kiếm các nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long]

Tại thành phố Cần Thơ, kết quả nghiên cứu của dự án cho thấy sụt lún đất đang xảy ra rõ rệt. Theo đó, tốc độ sụt lún do Bộ Tài nguyên và Môi trường đo lường tăng lên 4,37 cm/năm giai đoạn 2005-2017.

Còn khảo sát của InSAR từ năm 2015-2019 cho thấy thành phố Cần Thơ là điểm nóng về sụt lún với tốc độ vượt quá 5cm/năm ở hầu hết các khu vực. Đáng chú ý, kết quả khảo sát cho biết mực nước ngầm trong các tầng chứa nước ở khu vực Cần Thơ đã xuống mức thấp nhất vào năm 2020 kể từ khi bắt đầu quan trắc năm 1991.

Trước tình trạng trên, các chuyên gia của dự án cảnh báo rằng, một số vùng của Cần Thơ có thể mất toàn bộ độ cao so với mực nước biển nếu không giảm thiểu việc khai thác nước ngầm. Đồng thời, tình trạng ngập lụt khi triều cường sẽ gia tăng, gây tác động tiêu cực đến nhiều mặt đời sống của các đô thị. Một số quận, huyện có các khu công nghiệp như Trà Nóc, Thốt Nốt cũng đang gánh chịu tình trạng này.

Trong khi đó, tại Sóc Trăng đang có trên 100.000 giếng nước ngầm với lượng nước được khai thác trên 243.000 m3/ngày và tỉnh này cũng đang đối mặt với sụt lún diễn ra nhanh. Giai đoạn 2005-2017, tỷ lệ sụt lún ở Sóc Trăng là 4,4cm/năm (theo Bộ Tài nguyên và Môi trường) còn theo khảo sát của InSAR từ năm 2015-2019 cho thấy các khu vực có tốc độ sụt lún cao tới 5-6 cm/năm.

Điều này đã dẫn đến những thách thức bao gồm xâm nhập mặn gia tăng ở cả trong nước mặt và nước ngầm. Các trận lũ lụt gia tăng cả về tần suất và thời gian. Đặc biệt, một số vùng của Sóc Trăng có thể mất hết độ cao so với mực nước biển vào năm 2050 tùy thuộc vào tốc độ nước biển dâng tương đối trong tương lai.

Theo Thạc sỹ Nguyễn Hữu Thiện, Đồng bằng sông Cửu Long đang mất dần độ cao trong những thập kỷ qua. Tốc độ bồi lắng quá nhỏ, với lượng phù sa hạn chế do việc xây dựng đập ở thượng nguồn, không bù lại được với tốc độ sụt lún, mức độ và tần suất lũ (mang theo trầm tích) giảm và đặc biệt là tình trạng khai thác nước ngầm quá mức khiến vùng đồng bằng này chìm nhanh.

Trong những năm vừa qua, việc sử dụng nước ngầm đã gia tăng nhiều. Mặc dù có nguồn nước ngọt dồi dào từ lưu vực sông Mekong, việc khai thác nước ngầm ở miền Tây vẫn tăng theo cấp số nhân từ cuối những năm 1990, với thể tích hơn 2,5 triệu m3/ngày. Gần đây, hạn hán, ô nhiễm và xâm nhập mặn đã làm trầm trọng thêm việc sử dụng nước ngầm, do thiếu nước sử dụng, đặc biệt là vào mùa khô. Đồng thời, khai thác nước ngầm quá mức cũng làm tăng độ mặn trong mực nước ngầm.

Chia sẻ thông tin quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại ĐBSCL ảnh 2Khảo sát điểm sạt lở đất. (Ảnh: Huỳnh Thế Anh/TTXVN)

Để tránh thiệt hại trên diện rộng, chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho rằng, việc khai thác nước ngầm cần phải được giảm xuống mức bền vững, trong đó việc khai thác quá mức phải được giới hạn ở mức chấp nhận được và các nguồn nước ngầm phải bảo đảm cho các thế hệ tương lai.

Cần có quy hoạch tổng thể về nước ngầm

Ngày 26/12/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định 167/2018/NĐ-CP quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất ở các tầng chứa nước ngọt thuộc lãnh thổ của Việt Nam.

Đây là một công cụ chính sách để quản lý nước dưới đất nhằm kiểm soát việc khai thác và hạn chế các vấn đề liên quan đến việc khai thác nước dưới đất như xâm nhập mặn và sụt lún đất. Điều này được thực hiện bằng cách khoanh định và công bố các vùng hạn chế kèm theo những quy định về hạn chế khai thác tương ứng với các vấn đề đã xác định cho từng vùng.

Tuy nhiên, theo chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện, trong quá trình làm việc với các địa phương Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy việc thực hiện Nghị định 167 gặp rất khó khăn. Nguyên nhân do thiếu dữ liệu, vì dữ liệu sụt lún và khai thác nước ngầm chỉ có ở cấp vùng, còn ở tỉnh không có nên khó lập được một bản đồ hoàn chỉnh.

Đối với việc phân vùng, không phải khai thác chỗ nào thì sụt lún chỗ đó, không có dữ liệu về mối tương quan này, chỉ biết là khai thác nước ngầm gây sụt lún. Thiếu mạng lưới quan trắc và cơ chế giám sát, quản lý (nhiều giếng khoan không đăng ký…). Một khó khăn khác là không thể phân chia vùng nước ngầm theo ranh giới tỉnh vì dễ xảy ra khiếu nại, bởi dù tỉnh này không khai thác nhưng tỉnh kia khai thác cũng bị ảnh hưởng.

"Thực tế, việc sử dụng nước mặt tốn kém hơn nước ngầm rất nhiều do phải xử lý làm sạch khiến địa phương khó thu hút đầu tư. Không sử dụng nước ngầm không kêu gọi đầu tư được nhưng sử dụng "con tàu" Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm. Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan," ông Thiện nói.

Đồng thời, ông cũng kiến nghị cần có quy hoạch chung tổng thể về nước ngầm cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các địa phương trong vùng cần có hợp tác liên kết, có cơ chế chia sẻ thông tin và Nghị định 167 cần lồng ghép với các chính sách khác và bổ sung chế tài xử lý vi phạm.

Dữ liệu chính thức của Cục Quản lý tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường về khai thác nước ngầm chia người dùng thành 3 nhóm theo mục đích sử dụng sử dụng cho sinh hoạt, cho canh tác nông nghiệp và sản xuất công nghiệp.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, 40% tổng lượng nước ngầm được khai thác sử dụng cho sinh hoạt, 40% cho canh tác nông nghiệp và 20% cho sản xuất công nghiệp…/.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục