Theo bài viết mới đây trên trang mạng nationalinterest.org, Tổng thống Mỹ Donald Trump đang phải hứng chịu những lời chỉ trích từ mọi phía, cánh tả, cánh hữu, trung dung, các nghiệp đoàn và cả những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội.
Nhiều người có lý do chính đáng để buộc tội ông Trump. Tuy nhiên, khi những người chỉ trích không xét đến yếu tố lịch sử và sử dụng ngôn từ một cách tùy tiện, họ không thể đưa ra luận cứ thuyết phục người nghe.
Ngược lại, họ đang tạo ra một mớ lộn xộn và buộc ông Trump phải chiến đấu. Tình cảnh trên được phản ánh trong cuộc tranh cãi hiện nay về thương mại và thuế quan.
Không còn nghi ngờ gì nữa, việc ông Trump áp đặt thuế quan và ủng hộ chiến tranh thương mại, chẳng khác nào “đang đùa với lửa.”
Nếu không có một giải pháp nhanh chóng, kịp thời dập tắt mối đe dọa này thì nền kinh tế thế giới có thể sẽ rơi vào suy thoái hoặc trầm trọng hơn thế.
Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông đại chúng và đối tác thương mại buộc tội Trump “đe dọa trật tự thương mại toàn cầu do chính Mỹ tạo dựng” là điều thật phi lý.
Trật tự cho các đối tác thương mại của Mỹ dường như đã "chết héo" hàng thập kỷ trước, bị “giết chết” bởi gia đình nhà Bush, nhà Clinton, Liên minh châu Âu (EU), và nhiều người khác.
Thế nên “làm sao Trump có thể giết cái đã chết.”
Trật tự thương mại tự do “đầu tiên” được Mỹ cần mẫn xây dựng trong hàng thập kỷ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhưng dường như không giống như trật tự thương mại đã thống trị khoảng 30 năm qua mà tờ New York Times và các báo khác đã miêu tả.
Trật tự này đã theo đuổi thương mại mở toàn cầu thông qua cộng đồng quốc tế. Nó đã cố gắng tránh thực tiễn gần đây hơn về việc thành lập các khối thương mại riêng biệt như Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Mỹ rút lui nên đã được thay thế bằng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP).
Những dạng thỏa thuận thương mại kiểu này, vốn được các chuyên gia kinh tế xem như các Hiệp định ưu đãi thương mại (PTA), sử dụng ngôn từ tự do thương mại, nhưng còn lâu mới đạt được thứ tự do ấy.
Những thỏa thuận đó áp đặt rào cản lên tất cả, trừ các nước thành viên, và các quy định đó thường khắt khe hơn cả những thứ đã tồn tại trước khi tổ chức đó được hình thành.
Cam kết ban đầu của Washington đối với một biện pháp toàn cầu xuất hiện vào thời điểm cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra dữ dội.
Nỗ lực này bắt nguồn từ những kinh nghiệm “xấu” với Đạo Luật thuế Smoot-Hawley trong những năm 1930 mà một số chuyên gia kinh tế cho là đã gây ra cuộc Đại suy thoái, khiến nó ngày càng trầm trọng và kéo dài.
Đầu năm 1940, Tổng thống Franklin Roosevelt đã chỉ đạo Washington “ràng buộc” với Anh bằng một điều khoản, bất kỳ trợ giúp nào cũng đều phải hợp tác với Mỹ để tạo ra một hệ thống kinh tế thế giới tự do và cởi mở thời hậu chiến.
Hiến chương Đại Tây Dương ký với Thủ tướng Anh Winston Churchill năm 1941, có chứa nội dung tương tự.
[Nguyên nhân khiến Mỹ-Trung khó đạt thỏa hiệp thương mại]
Năm 1943, Washington đã đề xuất thành lập Tổ chức thương mại quốc tế (ITO), tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày nay, để tạo ra “các quy tắc thương mại toàn cầu.”
Nhiều thập kỷ sau khi thái độ thù địch khép lại, Washington đã chấp nhận Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) để xóa bỏ các hạn chế thương mại cho tất cả các nước thành viên chứ không phải chỉ một vài nước.
Những vòng đàm phán đầu tiên đã tăng số lượng thành viên ủng hộ GATT. Đại diện của Washington là Thứ trưởng phụ trách các vấn đề kinh tế William L. Clayton đã tuyên bố rằng “sự tiến bộ về kinh tế và tự do chính trị sẽ hưởng lợi từ các nguyên tắc tự do của các thị trường tự do.”
Đến đầu những năm 1960, Washington đã ủng hộ Vòng đàm phán Dillon của GATT để đảm bảo giảm 10% thuế quan trong cộng đồng quốc tế, bất chấp sự phản đối của các nước châu Âu.
Vòng đàm phán Kennedy giữa những năm 1960 và Vòng đàm phán Tokyo đầu những năm 1970 cắt giảm hơn nữa thuế quan trong toàn bộ cộng đồng thương mại quốc tế.
Song, biện pháp toàn cầu này bắt đầu sụp đổ vào những năm 1980. Dưới sức ép từ các tranh chấp tiền tệ và thương mại của những năm 1970, gánh nặng của xuất khẩu năng lượng đắt đỏ và sự nổi lên mạnh mẽ của cường quốc kinh tế Nhật Bản, Washington đã từ bỏ những nỗ lực toàn cầu và hướng đến các PTA, có lẽ là để bảo vệ chống lại những đối thủ thương mại “khó nhằn.”
NAFTA là ví dụ đầu tiên. Hiệp định này được thương thảo vào cuối những năm 1980 dưới thời Tổng thống George H. W. Bush và được thực thi vào những năm 1990 dưới thời Tổng thống Bill Clinton.
Quả thực, NAFTA thúc đẩy tự do thương mại giữa Mexico, Canada và Mỹ. Mặt khác, nó giúp ngăn chặn phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Trong khi đó, TPP lẽ ra là để ngăn chặn Trung Quốc, châu Âu và những nước khác.
Thậm chí EU có giá trị như một PTA. Nó sẽ bảo đảm thương mại mở trong số các nước thành viên, nhưng các nước khác- Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ và nhiều nước khác - sẽ gặp phải những trở ngại thương mại đáng kể do khối này đặt ra.
Việc áp dụng PTA ngày càng nhiều đã giết chết nỗ lực cuối cùng về giảm hơn nữa thuế quan toàn cầu. Đầu những năm 2000, WTO đã đi đầu một nỗ lực như vậy, được biết đến với tên gọi Vòng đàm phán Doha. Nó đã thất bại sau nhiều tháng thương lượng, phần lớn là do châu Âu phản đối các vấn đề nông nghiệp. Kể từ đó, không còn thêm nỗ lực nào nữa.
Thất bại này đã dẫn tới việc cựu Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy và rất nhiều chuyên gia kinh tế “chê bai” các PTA, thậm chí phương tiện truyền thông sai lầm coi nó như những tác nhân của thương mại tự do.
Lamy và các chuyên gia kinh tế khẩn khoản yêu cầu chính quyền các cường quốc - Washington, Brussels, Bắc Kinh, Tokyo và thậm chí cả New Delhi - trở lại với những nỗ lực thương mại tự do mà Washington đã cố gắng tạo ra ngay từ ban đầu.
Nếu phương tiện truyền thông và các đối tác thương mại của Mỹ muốn buộc tội ông Trump gây hại cho trật tự thương mại toàn cầu, họ phải nói rõ với độc giả rằng trật tự nào họ lo sợ ông Trump sẽ phá hoại.
Có phải là một trong các PTA hay nỗ lực ban đầu về thương mại tự do? Donald Trump, tất nhiên, dường như không quan tâm đến tất cả điều đó. Nhiều khả năng ông Trump, giống như những người buộc tội ông, hoàn toàn không hiểu khái niệm về trật tự thương mại thế giới đã thay đổi như thế nào cho đến ngày nay.
Tổng thống Donald Trump rõ ràng muốn thay đổi nguyên trạng. Nhưng cũng có cái chưa rõ ràng. Ông ta không muốn một cuộc chiến tranh thương mại, có vẻ như ông chỉ sẵn sàng đe dọa để đảm bảo các mục tiêu, bất kể mục tiêu đó là gì.
Liệu ông Trump có hiểu được về thảm họa kinh tế mà các cố vấn của ông đã nhiều lần cảnh báo. Hầu hết các phát biểu của ông đều ám chỉ rằng ông sẵn sàng làm việc trong trật tự PTA gần đây hơn để có được một “thỏa thuận tốt hơn.”
Tuy nhiên, nếu ông có ý như những gì ông nói khi rời Hội nghị thượng đỉnh G7 ở Canada mới đây - mục đích của ông là buộc xóa bỏ các rào cản và trợ cấp ở bất kỳ nơi đâu - thì khi đó ông sẽ dường như muốn vứt bỏ trật tự PTA và thay thế nó bằng cách tiếp cận giống như Roosevelt, Truman, Eisenhower và Kennedy từng theo đuổi.
Điều này Pascal Lamy, các đồng nghiệp của ông và nhiều người khác chỉ có thể hy vọng./.