Thập kỷ bảo tồn đa dạng sinh học - Việt Nam đã làm gì?

Việt Nam nằm trong tốp 16 quốc gia có sự đa dạng sinh học cao nhất thế giới, song, tính chất đa dạng sinh học đang chịu áp lực ngày càng tăng do hoạt động của con người và tình trạng biến đổi khí hậu.
Thập kỷ bảo tồn đa dạng sinh học - Việt Nam đã làm gì? ảnh 1Mật độ che phủ của cánh rừng thông ở Vườn quốc gia Tam Đảo được đảm bảo, tạo cảnh quan và giữ gìn môi trường sinh thái. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)

Thập kỷ đa dạng sinh học 2011-2020 do Liên hợp quốc phát động sắp kết thúc nhưng thông điệp của Tổng Thư ký hồi đó, ông Ban Ki-moon, “nhân loại hãy sống hài hòa hơn với thiên nhiên, duy trì và quản lý sự đa dạng của tự nhiên vì sự phát triển của nhân loại,” vẫn còn dang dở.

Không phải ngẫu nhiên mà Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho rằng phải coi bảo tồn đa dạng sinh học là “vấn đề đạo đức” trong bài phát biểu tại Phiên toàn thể Hội nghị Thượng đỉnh (trực tuyến) về Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc được tổ chức tại New York (Mỹ) vào ngày 30/9 vừa qua.

Một thông điệp dang dở

Gần 10 năm trước, ông Ban Ki-moon với tư cách là Tổng Thư ký Liên hợp quốc đã kêu gọi toàn nhân loại bảo vệ sự đa dạng sinh học trên Trái Đất. Theo ông, sự phát triển bền vững của con người phụ thuộc nhiều vào sự đa dạng sinh học.

Ông Ban Ki-moon nói: “Nhân loại có thể không bao giờ biết được những cơ hội quý báu về những bệnh nan y có thể được chữa khỏi hoặc những phát hiện bổ ích khác từ thiên nhiên bởi nhiều hệ sinh thái bị hủy hoại vĩnh viễn hoặc đất đai bị ô nhiễm không thể sử dụng được.”

[Việt Nam kêu gọi các nước hành động quyết liệt bảo vệ đa dạng sinh học]

Giai đoạn 2011-2020 được Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 19/12/2011 tuyên bố là “Thập kỷ Liên hợp quốc về đa dạng sinh học” nhằm đạt được sự cam kết chung của các quốc gia trong việc bảo vệ hơn 8 triệu loài động thực vật đang bị đe dọa để cân bằng sự sống trên hành tinh của chúng ta.

Chỉ có nhận thức đúng và hành động cùng nhau thì nhân loại mới có thể ngăn chặn tiến trình tuyệt chủng của động, thực vật diễn ra nhanh hàng trăm, hàng nghìn lần (so với quy luật sinh tồn tự nhiên) do tác động của con người.

Kết quả của ngót một thập kỷ qua như thế nào?

Hội nghị Thượng đỉnh về Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc với chủ đề “Hành động khẩn cấp về đa dạng sinh học vì sự phát triển bền vững” được tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng 9 năm nay.

Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres kêu gọi các nước tích cực: đầu tư vào các hành động mang tính bền vững; không hỗ trợ các ngành công nghiệp gây ô nhiễm; chấm dứt trợ cấp nhiên liệu hóa thạch; tính đến sự rủi ro đối với lĩnh vực khí hậu trong tất cả quyết định chính sách và tài chính; cùng nhau hành động; không ai bị bỏ lại phía sau.

Theo số liệu được đưa ra tại hội nghị này, sự đa dạng sinh học trên Trái Đất vẫn đang suy giảm với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Hơn 1 triệu loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cận kề.

Các hoạt động của con người làm cho 75% bề mặt đất và 66% diện tích đại dương bị thay đổi mạnh mẽ.

Thập kỷ bảo tồn đa dạng sinh học - Việt Nam đã làm gì? ảnh 2Nhiều loài chim quý hiếm được nuôi dưỡng, bảo tồn tại khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười. (Ảnh: Nam Thái/TTXVN)

Đa dạng sinh học là sự phong phú của nhiều dạng, loài và các biến dị di truyền của mọi sinh vật trong đời sống tự nhiên, sự đa dạng và phong phú này được chia làm nhiều cấp độ tổ chức sinh giới, đặc biệt là với các dạng hệ sinh thái của môi trường trên Trái Đất.

Trên hành tinh của chúng ta hiện có khoảng 30 triệu loài sinh vật và giữa chúng có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, thậm chí dựa vào nhau mà sống, loài này là thức ăn của loài kia.

Chẳng hạn, cây cối chuyển hóa năng lượng Mặt Trời, trở thành thức ăn của động vật và thực vật lại nhờ động vật giúp thụ phấn hoa, phân tán quả đi khắp nơi...

Con người với các hoạt động của mình đã đẩy rất nhanh tốc độ tuyệt chủng của nhiều giống loài.

Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP) ước tính có khoảng 7 triệu loài có nguy cơ tuyệt chủng trong khoảng 30 năm tới; 3/4 loài chim trên thế giới đang lụi dần; 1/4 loài có vú có nguy cơ biến mất khỏi Trái Đất.

Sự đa dạng sinh học tự nhiên trên toàn cầu bị suy giảm nghiêm trọng bởi kỹ thuật canh tác hiện đại; nạn phá rừng; sự hủy hoại môi trường sống ở những vùng đầm lầy và trên đại dương...

Việt Nam nằm trong tốp 16 quốc gia có sự đa dạng sinh học cao nhất thế giới. Song, tính chất đa dạng sinh học đang chịu áp lực ngày càng tăng do các hoạt động của con người và tình trạng biến đổi khí hậu.

Sự suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng thuộc các nguyên nhân cơ bản như ở mọi nơi khác: Các giống loài động vật, thực vật mất đi nơi sinh cư do con người chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đốt rừng làm rẫy, khai thác tài nguyên quá mức, ô nhiễm môi trường...

Bảo vệ sự đa dạng sinh học ở Việt Nam

Ngày 30/9, phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh về Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc với chủ đề “Hành động khẩn cấp về đa dạng sinh học vì sự phát triển bền vững,” Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà thay mặt Chính phủ Việt Nam nêu rõ: “Chúng ta thậm chí có thể thấy rõ ràng "lời nguyền của tự nhiên" từ nhiều quốc gia, trong đó có đất nước chúng tôi, một quốc gia với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đang phải hứng chịu hậu quả từ việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên đa dạng sinh học, và đây là minh chứng rõ ràng về mối quan hệ nhân quả giữa con người và thiên nhiên."

Để bảo vệ sự đa dạng sinh học tự nhiên thì bên cạnh nhận thức và những lời tuyên bố, rất cần có những hành động cụ thể.

Xây dựng các khu bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam và biến những nơi này thành khu du lịch thân thiện với môi trường là một hướng đi đúng cần phát huy.

Việt Nam hiện tại có 173 khu bảo tồn với tổng diện tích hơn 2,5 triệu ha, trong đó có 33 vườn quốc gia, 66 khu dự trữ thiên nhiên, 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh cùng 56 khu bảo vệ cảnh quan.

Đặc biệt, 9 cơ sở được công nhận là “khu dự trữ sinh quyển thế giới,” 3 cơ sở là “khu di sản thiên nhiên thế giới” do tổ chức UNESCO công nhận, 9 khu ramsar (đất ngập nước), 10 khu vườn di sản ASEAN.

Diện tích rừng ở Việt Nam là hơn 13,8 triệu ha, tỷ lệ che phủ đạt 41,89 %.

Hệ thống 33 vườn quốc gia trải đều từ Bắc vào Nam, từ miền núi xuống biển với tổng diện tích khoảng 10.665,44 km2 (trong đó có 620,10 km2 là mặt biển), chiếm khoảng 3% diện tích lãnh thổ đất liền.

Tại khu vực miền Bắc có 11 vườn quốc gia Du Già (Hà Giang); Phia Oắc - Phia Đen (Cao Bằng); Hoàng Liên (Lào Cai); Ba Bể (Bắc Kạn); Bái Tử Long (Quảng Ninh); Cát Bà (Hải Phòng); Xuân Sơn (Phú Thọ); Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Ba Vì (Hà Nội); Xuân Thủy (Nam Định) vàCúc Phương (Ninh Bình).

Khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 13 vườn quốc gia gồm Bến En (Thanh Hóa); Pù Mát (Nghệ An); Vũ Quang (Hà Tĩnh); Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình). Bạch Mã (Thừa Thiên-Huế); Chư Mom Ray (Kon Tum); Kon Ka Kinh (Gia Lai); Yok Đôn vàChư Yang Sin (đều ở Đắk Lắk); Tà Đùng tỉnh (Đắk Nông); Bidoup Núi Bà (Lâm Đồng); Phước Bình và Núi Chúa (đều ở Ninh Thuận).

Khu vực Nam Bộ có 9 vườn quốc gia là Bù Gia Mập (Bình Phước); Nam Cát Tiên (Đồng Nai); Lò Gò Xa Mát (Tây Ninh); Tràm Chim (Đồng Tháp); Phú Quốc và U Minh Thượng (đều ở Kiên Giang); Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu); U Minh Hạ và Mũi Cà Mau (đều ở Cà Mau).

Trong hệ thống các vườn quốc gia thì Vườn quốc gia Pù Mát (phía Tây tỉnh Nghệ An) có vị trí đặc biệt. Được thành lập theo quyết định số 174/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/11/2001 về việc chuyển hạng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Mát thành Vườn quốc gia.

Vườn quốc gia Pù Mát hiện được xác định là vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An do UNESCO công nhận năm 2007.

Tổng diện tích của Vườn quốc gia Pù Mát là 94.804ha, vùng đệm rộng 86.000ha.

Tại Pù Mát 1.144 loài thực vật có mạch được ghi nhận, trong đó có 3 loài là mới là Cleistanthus spp. nov., Phyllagathis spp. nov. và Phrynium pumatensis. Tại đây có 3 loài thú đặc hữu Đông Dương: sao la (Pseudoryx nghetinhensis), thỏ sọc Bắc Bộ (Nesolagus spp. nov.), vượn đen má trắng (Hylobates leucogenys), vượn má hung (Hylobates gabriellae).

259 loài chim cũng đã được phát hiện ở đây, trong đó 22 loài có nguy cơ tuyệt chủng.

Sao la (tên khoa học: Pseudoryx nghetinhensis), còn được gọi là "Kỳ lân châu Á" là một trong những loài thú hiếm nhất trên thế giới sinh sống trong vùng núi rừng Trường Sơn và được các nhà khoa học phát hiện vào năm 1992.

Sao la được xếp hạng ở mức nguy cấp (có nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao) trong Sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thế giới (IUCN) và trong Sách đỏ Việt Nam.

Loài này được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới tại Việt Nam vào tháng 5 năm 1992.

Việc khám phá ra loài sao la đã gây chấn động trên thế giới vì giới khoa học đã từng cho rằng việc tìm thấy một loài thú mới có tầm vóc lớn vào cuối thế kỷ 20 là chuyện khó có thể xảy ra.

Thập kỷ bảo tồn đa dạng sinh học - Việt Nam đã làm gì? ảnh 3Đàn Voọc Chà vá chân xám phát hiện tại núi Hòn Dồ, xã Tam Mỹ Tây, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. (Ảnh: Hữu Trung, Văn Tuấn/TTXVN)

Theo cách hiểu chung trên toàn cầu, vườn quốc gia là một khu vực trên đất liền hay biển được bảo tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại. Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai thác, can thiệp của con người.

Vườn quốc gia thường được thành lập ở những khu vực có hệ sinh thái phong phú, có nhiều loài động vật, thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt.

Chỉ tính riêng trong 5 năm trở lại đây Việt Nam đã thành lập thêm 3 vườn quốc gia.

Thứ nhất, Vườn quốc gia Du Già trên Cao nguyên đá Đồng Văn thuộc tỉnh Hà Giang. Vườn rộng hơn 15.000ha, được thành lập vào năm 2015 trên cơ sở sáp nhập Khu bảo tồn loài và sinh cảnh voọc mũi hếch Khau Ca và Khu bảo tồn thiên nhiên Du Già.

Đây là khu vực tự nhiên có tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động vật, thực vật quý hiếm vọoc mũi hếch Bắc Bộ, vượn đen má trắng, sơn dương nâu, bách xanh, bách xanh núi đá, nghiến, đinh.

Thứ hai, Vườn quốc gia Phia Oắc-Phia Đén thuộc tỉnh Cao Bằng. Cơ sở này được thành lập vào năm 2018 trên cơ sở toàn bộ diện tích khu bảo tồn thiên nhiên trước đây.

Vườn rộng hơn 10.245ha, trong hơn đó 4.035ha là khu bảo vệ nghiêm ngặt. Phia Oắc-Phia Đen có 352 loài thực vật, 58 loài động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng.

Thứ ba, Vườn quốc gia Tà Đùng thuộc ở tỉnh Đắk Nông với diện tích gần 21.000ha. Vườn được thành lập vào năm 2018 trên cơ sở chuyển đổi từ khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng.

Nơi đây có hơn 1.000 loài động vật, thực vật, nhiều loài có trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới như nai, cà toong, báo hoa mai, các loài linh trưởng, công, trĩ...

Các loài này đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc suy giảm mạnh về số lượng. Tà Đùng là một trong bốn vùng chim đặc hữu của Việt Nam (chiếm 1/8 số loài chim của cả nước) và là một trong 222 vùng chim đặc hữu của thế giới.

Bên cạnh các vườn quốc gia, tại Việt Nam các khu rừng ngập mặn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn sự đa dạng sinh học.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long có hơn100.000ha rừng ngập mặn (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Long An).

Đây là nơi sinh trưởng của 98 loài cây, 36 loài thú, 182 loài chim, 34 loài bò sát và 6 loài lưỡng cư; vùng biển và ven biển có 260 loài cá và thủy sản.

Việc bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển được Chính phủ quan tâm. Trong số các giải pháp phải kể đến dự án trồng 5 triệu ha rừng của Việt Nam và các dự án hợp tác quốc tế như dự án Phát triển và bảo vệ các vùng đất ngập nước ven biển tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh; dự án Khu dự trữ quốc gia U Minh Thượng, chương trình sử dụng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học đất ngập nước khu vực sông Mekong...

Mới đây nhất, ngày 1/10, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã giới thiệu Chương trình Vinh danh tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho công tác bảo tồn các loài hoang dã giai đoạn 2010-2020 nhằm ghi nhận những đóng góp, sáng kiến trong công tác bảo tồn sự đa dạng sinh học ở Việt Nam.

Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân, Việt Nam rất cố gắng trong việc bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên, loài sinh vật và các nguồn gen phong phú, đặc hữu, quý, hiếm và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Báo cáo quốc gia về đa dạng sinh học lần thứ 6 cho biết Việt Nam có khoảng 51.400 loài sinh vật đã được xác định, gồm khoảng 7.500 loài/chủng vi sinh vật, khoảng 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước, khoảng 10.900 loài động vật trên cạn, khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt, hơn 11.000 loài sinh vật biển khác.

Các loài mới tiếp tục được ghi nhận và công bố hằng năm. Từ năm 2014 đến tháng 9/2018 có 344 loài sinh vật mới được mô tả và công bố trong các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới và tạp chí Sinh học của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Công tác điều tra, giám sát đa dạng sinh học, cứu hộ, bảo tồn tại chỗ các loài hoang dã đã đóng góp quan trọng cho bảo tồn đa dạng sinh học nói chung, góp phần giảm nguy cơ tuyệt chủng của các loài nguy cấp ở Việt Nam./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục