Chiều 31/12, tại Phủ Chủ tịch, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước công bố các luật, pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV thông qua.
14 luật và 1 pháp lệnh này gồm: Luật An ninh mạng; Luật chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Dẫn độ; Luật Phòng, chống ma túy; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh trật tự; Luật Thi hành án hình sự; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Luật Tình trạng khẩn cấp; Luật Viên chức; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát môi trường.
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước, Trợ lý Chủ tịch nước Cấn Đình Tài, chủ trì Họp báo.
Phân cấp, phân quyền, cắt giảm thủ tục hành chính
Luật An ninh mạng có 8 chương, 45 điều. Luật hoàn thiện và thống nhất hệ thống khái niệm làm nền tảng cho quản lý và bảo vệ an ninh mạng, bao gồm, an ninh mạng, an ninh thông tin mạng, an ninh dữ liệu và không gian mạng quốc gia.
Việc chuẩn hóa các khái niệm này giúp xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán trong các quy định trước đây; đồng thời tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật về an ninh mạng.
Luật cũng đã bổ sung, cụ thể hóa các hành vi bị nghiêm cấm gắn với sự phát triển của khoa học, công nghệ và các phương thức hoạt động mới trên không gian mạng.
Đồng thời, Luật hoàn thiện cơ chế bảo vệ an ninh mạng theo cấp độ đối với hệ thống thông tin. Quy định việc phân loại hệ thống thông tin theo 5 cấp độ an ninh mạng làm căn cứ áp dụng các biện pháp bảo vệ tương ứng với mức độ rủi ro...
Luật chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù có 4 chương, 48 điều. Việc ban hành Luật nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù theo hướng nhân đạo, toàn diện, cụ thể, đồng bộ, thống nhất, khả thi, ổn định, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; bảo đảm tốt hơn quyền con người của người đang chấp hành án phạt tù; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
Luật quy định Bộ Công an là Cơ quan trung ương về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quy định vai trò, nhiệm vụ của Cơ quan trung ương về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, trong đó có trách nhiệm lập yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
Luật Dẫn độ có 4 chương, 45 điều. Luật Dẫn độ đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về tăng cường hội nhập quốc tế, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp; tuân thủ Hiến pháp năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 203/2025/QH15, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm các quy định của Luật có tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tình hình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; kế thừa các quy định còn phù hợp điều chỉnh lĩnh vực này của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật của một số nước về dẫn độ.
Luật Phòng, chống ma túy năm 2025 gồm 8 chương, 56 điều. Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên về giám sát điện tử, Luật Phòng, chống ma túy năm 2025 đã bổ sung quy định về biện pháp giám sát điện tử trong theo hướng xác định đối tượng áp dụng (3 đối tượng) gồm: Người cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng; người bị quản lý sau cai nghiện; người điều trị nghiện ma túy bằng thuốc thay thế.
Đồng thời, Luật quy định về thẩm quyền áp dụng giao Trưởng Công an xã; trách nhiệm của người bị giám sát điện tử và giao Chính phủ quy định chi tiết về thiết bị, đối tượng; điều kiện, thời hạn, trình tự, thủ tục, xử lý vi phạm trong việc áp dụng biện pháp giám sát điện tử... Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn cai nghiện ma túy đối với người cai nghiện ma túy lần đầu là 24 tháng, đối với người cai nghiện ma túy từ lần thứ hai trở lên là 36 tháng để đảm bảo người nghiện ma túy có thời gian thực hiện đầy đủ các bước theo quy trình cai nghiện và tránh tùy nghi trong quá trình tổ chức thực hiện.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh trật tự gồm 11 điều. Việc xây dựng Luật nhằm bảo đảm quy định của 10 có liên quan đến an ninh, trật tự phù hợp với kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương 2 cấp, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, phù hợp với chủ trương đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phân cấp, phân quyền, cắt giảm thủ tục hành chính và thống nhất với hệ thống pháp luật.
Luật Thi hành án hình sự năm 2025 gồm 15 chương và 180 điều. Luật được ban hành nhằm tiếp tục cụ thể hóa quy định về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; sắp xếp tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.
Đồng thời hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị trong công tác thi hành án hình sự bảo đảm tăng cường phân cấp, phân quyền; hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ và chế độ của người chấp hành án; hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực thi hành án hình sự; khắc phục bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật có liên quan...
Luật Tương trợ tư pháp về hình sự gồm 4 chương, 42 điều. Việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự theo hướng tách các quy phạm pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự ra khỏi Luật tương trợ tư pháp năm 2007 thành đạo luật riêng nhằm đáp ứng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, tăng cường hội nhập, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự; giải quyết khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về tương trợ tư pháp về hình sự; bảo đảm tương thích và đồng bộ với hệ thông pháp luật trong nước, các cam kết quốc tế của Việt Nam trong cùng lĩnh vực; góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú gồm 12 chương, 74 điều. Đáng chú ý, Luật mở rộng phạm vi điều chỉnh, bổ sung quy định về thi hành biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhằm khắc phục khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo đó, Luật đã bổ sung quy định về thi hành biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, gồm: Gửi lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và phổ biến quyền, nghĩa vụ cho người bị cấm đi khỏi nơi cư trú; thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao quản lý, theo dõi người bị cấm đi khỏi nơi cư trú; quyền và nghĩa vụ của người bị cấm đi khỏi nơi cư trú; giải quyết vắng mặt tại nơi cư trú; giải quyết trong trường hợp thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc, lao động hoặc học tập; xử lý trường hợp người bị cấm đi khỏi nơi cư trú vi phạm nghĩa vụ.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp gồm 3 điều. Về yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; việc sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp, thông tin lý lịch tư pháp, Luật quy định theo hướng các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được yêu cầu cá nhân cung cấp thông tin lý lịch tư pháp hoặc Phiếu lý lịch tư pháp; chỉ được yêu cầu cung cấp Phiếu số 1 trong trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc nghị định, nghị quyết của Chính phủ quy định.
Đồng thời, Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định các cơ quan, tổ chức khi có yêu cầu sử dụng thông tin lý lịch tư pháp của cá nhân thì được khai thác, sử dụng thông qua kết nối, chia sẻ dữ liệu từ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, không yêu cầu cá nhân cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp.Các luật trên đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2026.
Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước gồm 5 chương, 28 điều. Luật quy định phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng thuộc các lĩnh vực chưa được công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nội dung điều luật được xây dựng trên cơ sở phân loại lĩnh vực theo quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ và phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy sau sắp xếp tinh gọn (13 lĩnh vực). Đây cũng là kết quả nghiên cứu, rà soát, kế thừa Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và nội dung bí mật nhà nước tại 35 danh mục bí mật nhà nước hiện hành.
Theo đó, phạm vi bí mật nhà nước tại dự thảo Luật được xây dựng theo hướng quy định chung, khái quát để nhận diện bí mật nhà nước trong từng lĩnh vực nhằm giúp cho việc xây dựng danh mục bí mật nhà nước được chính xác, toàn diện.
Trên cơ sở phạm vi bí mật nhà nước quy định tại Điều 7 và phân loại bí mật nhà nước quy định tại Điều 8 của Luật, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành danh mục bí mật nhà nước quy định cụ thể từng mức độ mật của bí mật nhà nước theo trình tự, thủ tục chặt chẽ quy định tại Luật...
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm 5 chương, 45 điều với nhiều điểm mới mang tính đột phá. Theo đó, Luật chỉ quy định những vấn đề mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; các nội dung khác giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành để bảo đảm tính linh hoạt, chủ động trong thực tiễn thi hành Luật; bổ sung nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên tắc hoạt động giám sát toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nguyên tắc bảo đảm gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương.
Luật bổ sung các quy định về phân công, phân cấp, phân quyền, phối hợp trong hoạt động giám sát; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến bảo đảm thực hiện nghị quyết, kết luận, yêu cầu, kiến nghị giám sát; sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, cơ quan của Hội đồng Nhân dân, đại biểu Hội đồng Nhân dân và thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong hoạt động giám sát... Hai luật trên có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/3/2026.
Nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức gắn với vị trí việc làm
Luật Viên chức gồm 6 chương, 43 điều. Luật Viên chức năm 2025 đã thể hiện tư duy đổi mới, tạo hành lang pháp lý đồng bộ công tác quản lý viên chức theo hướng năng động, minh bạch, hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với yêu cầu đối mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giai đoạn mới.
Luật đã đổi mới cơ chế, phương thức tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức theo vị trí việc làm; bổ sung, hoàn thiện quy định về nghĩa vụ, quyền của viên chức; tạo liên thông trong sử dụng nguồn nhân lực giữa khu vực công và khu vực tư; thực hiện cơ chế thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; đổi mới cơ chế đánh giá viên chức; ứng dụng công nghệ số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về viên chức... Luật Viên chức năm 2025 là bước cụ thể hóa quan trọng các Nghị quyết chiến lược của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, giáo dục đào tạo, y tế và các quy định mới về công tác cán bộ nhằm thực hiện cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức gắn với vị trí việc làm; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số; hiệu quả hoạt động đánh giá dựa trên sản phẩm, kết quả công việc góp phần phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ Nhân dân trong giai đoạn mới.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã sửa đổi, bổ sung 10 điều và bổ sung 1 mục (gồm 4 điều). Luật đã quy phạm hóa chủ trương của Đảng về xây dựng công nghiệp an ninh trong kỷ nguyên phát triển, vươn mình của dân tộc.
Luật được ban hành sẽ góp phần hoàn thiện, đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường phát triển công nghiệp an ninh phục vụ toàn hệ thống chính trị và xã hội, hướng đến xuất khẩu, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi số quốc gia.
Các quy định của Luật phù hợp với tinh thần các Nghị quyết của Bộ Chính trị. Nội dung dự thảo Luật tuân thủ Hiến pháp năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2025), phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Luật Tình trạng khẩn cấp gồm 6 chương, 36 điều. Việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp góp phần hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp; tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thi hành pháp luật nhằm tăng cường tính chủ động trong việc ứng phó, khắc phục kịp thời, hiệu quả trường hợp xảy ra tình trạng khẩn cấp, góp phần bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Nhân dân và quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Các luật trên đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2026.
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát môi trường có hiệu lực kể từ ngày 15/12/2025. Việc xây dựng Pháp lệnh nhằm bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của lực lượng Công an nhân dân phù hợp với mô hình tổ chức mới ở các cấp; bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc và phát huy vai trò, trách nhiệm, hiệu quả của lực lượng Công an cấp tỉnh và Công an cấp cơ sở (cấp xã) trong công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật và bảo vệ môi trường; nhất là việc bảo đảm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm từ sớm, từ đầu, từ cơ sở.../.