Yêu cầu chưa thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản

Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam yêu cầu cơ quan chức năng tạm thời chưa thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng đã khai thác từ ngày 1/7/2011 đến 31/12/2013.
Yêu cầu chưa thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ảnh 1 (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Nhằm tháo gỡ một số vấn đề vướng mắc trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã ra văn bản số 1014/ĐCKS-KTĐCKS yêu cầu cơ quan chức năng các tỉnh tạm thời chưa thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng đã khai thác từ ngày 1/7/2011 đến 31/12/2013.

Theo yêu cầu của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, các tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép khai thác khoáng sản từ ngày 1/7/2011 đến 31/12/2013 phải nộp bổ sung hồ sơ chứng minh phần trữ lượng đã khai thác trong khoảng thời gian này.

Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cũng yêu cầu các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải xem xét đồng nhất giá tính thuế tài nguyên đối với một loại khoáng sản ở 1 khu vực mỏ khi sử dụng cho nhiều mục đích rõ ràng.

Với các giấy phép khai thác khoáng sản cấp trước ngày 20/1/2014, tổ chức và cá nhân được cấp giấy phép khai thác phải nộp hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản về cơ quan chức năng địa phương theo thẩm quyền cấp phép khai thác trong thời gian không quá 60 ngày, kể từ ngày 20/1/2014.

Ngoài ra, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cũng yêu cầu tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép khai thác khoáng sản đẩy nhanh công tác tính, thẩm định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với các giấy phép đã cấp theo thẩm quyền.

Trước đó, ngày 28/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP (có hiệu lực thi hành từ ngày 20/1/2014), quy định phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

Theo đó, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được quy định theo nhóm, loại khoáng sản có giá trị từ 1-5%. Trong đó, mức thu tiền cấp quyền khai thác đá, cát, đất là 5%; than bùn và các loại vật liệu xây dựng thông thường còn lại 4%; cát trắng, sét chịu lửa 3%; đá ốp lát gốc 1%; titan sa khoáng ven biển 3%;đá vôi, secpentin 3%; nhóm khoáng sản đá quý, đá bán quý 2%; nhóm khoáng sản nước nóng, nước khoáng và khí CO2 là 2%.

Cũng theo Nghị định này, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có thể nộp thuế một lần bằng 100% tổng số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với trường hợp thời gian khai thác còn lại trong giấy phép khai thác, hoặc cấp mới bằng hoặc dưới 5 năm.

Tổ chức, cá nhân cũng có thể nộp tiền nhiều lần đối với các giấy phép khai thác khoáng sản cấp trước ngày Nghị định này có hiệu lực, lần đầu thu khi có thông báo của cơ quan có thẩm quyền; các lần sau thu hàng năm liên tục và hoàn thành việc thu trước khi giấy phép hết hạn 5 năm.

Thời điểm nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản chậm nhất lần đầu là 90 ngày tính từ ngày nhận được thông báo của Cục thuế địa phương; thời điểm các lần sau chậm nhất là 31/3 các năm tiếp theo. Sau các thời điểm này, ngoài số tiền phải nộp theo thông báo, tổ chức, cá nhân còn phải nộp tiền phạt theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Trường hợp trữ lượng khoáng sản được cấp phép lớn, thời gian khai thác còn lại và công suất khai thác trung bình hàng năm không thể hết phần trữ lượng chưa khai thác, tổ chức, cá nhân có thể xin điều chỉnh Giấy phép khai thác về công suất hoặc trữ lượng./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục