Nguy cơ suy giảm tài nguyên sinh vật biển ở Việt Nam

Việt Nam đang đối mặt với áp lực của phát triển ngày càng gia tăng đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên biển.
Sau hơn 30 năm đổi mới chính sách, nền kinh tế Việt Nam nói chungvà tại vùng ven biển nói riêng đã phát triển mạnh mẽ. Phát triển kinh tếdịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa có xu thế tiến rabiển.

Trong những năm vừa qua, ước tính kinh tế biển đóng góp khoảng 48%GDP, trong đó các ngành kinh tế biển có đóng góp lớn là dầu khí 64%,đánh bắt và chế biến hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ cảng biển 11%,du lịch biển khoảng 9%...Song áp lực của phát triển ngày càng gia tăngđối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như các giá trị kháccủa vùng biển và ven biển luôn là vấn đề bức xúc hiện nay.

Suy giảm tài nguyên sinh học

Theo đánh giá của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, sự suy giảmchất lượng môi trường biển làm cho môi trường sống của các loài sinh vậtbiển bị phá hủy, mất đa dạng sinh học. Nhiều loài sinh vật biển hiệnđang giảm về số lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loàithủy sinh quý hiếm bị đe dọa ở cấp độ khác nhau, trong đó có hơn 70 loàisinh vật biển đã bị liệt kê trong sách đỏ Việt Nam. Nhiều loài trong sốnày hiện vẫn đang là đối tượng khai thác bằng nhiều hình thức khácnhau, kể cả hình thức tận diệt bằng hóa chất và chất nổ. Sự suy giảm đadạng sinh học kéo theo sự suy giảm số lượng loài sinh vật có giá trịkinh tế.

Do nguồn lợi hải sản đang bị khai thác theochiều hướng không bền vững, nên ngày càng bị cạn kiệt dần về số lượngvà suy giảm cả về chất lượng. Các nguồn cá dự trữ bị suy giảm từ 4 triệutấn vào năm 1990 xuống còn 3 triệu tấn như hiện nay. Kích thước trungbình của cá và tính đa dạng loài cũng giảm đáng kể.

Nguyên nhân chính yếu là do sự gia tăng trong xuất khẩu thủy sản, dẫnđến sản lượng đánh bắt hàng năm vượt quá nguồn dự trữ có sẵn. Mặt kháccác biện pháp đánh bắt bất hợp pháp và mang tính hủy diệt như sử dụngchất nổ, xyanua, xung điện, mắt lưới nhỏ...vẫn chưa được kiểm soát chặtchẽ, không chỉ làm suy giảm các tài nguyên biển, mà còn gây tổn hại chomôi trường sống của các loài hải sản. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng của dưlượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trong nguồn nước tích tụ qualại các bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, mà các loài thủy hải sản đượccoi là một trong những mắt xích cuối.

Giá trị về độphủ của rạn san hô và độ đa dạng loài cũng có chiều hướng suy giảmtrong những năm gần đây, ở một số vùng hơn 30%. Một số loài thủy sảnquan trọng sống ở rạn đang suy giảm trầm trọng, như tôm Bác sỹ, tôm Hùm,Hải sâm, cá Bướm, cá Thiên thần, cá Đuôi gai...Mật độ nhóm cá kíchthước lớn có giá trị thương mại cao đang giảm một cách trầm trọng.

Tương tự như đối với rạn san hô, thảm cỏ biển cũng đang bị thu hẹp dầndo tai biến thiên nhiên, lấn biển để xây dựng ao nuôi thủy sản, cáccông trình ven biển và do ô nhiễm. Các điểm ‘nóng” về suy giảm thảm cỏbiển là Vịnh Hạ Long, đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, đảo Phú Quốc đồngthời, diện tích rừng ngập mặn suy giảm một cách rõ rệt, từ 408.500ha vàonăm 1943, đến năm 2000 chỉ còn 155.290ha.

Ô nhiễm ven bờ gia tăng

Qua số liệu điều tra của Tổng cục Môi trường, nước mặt ven biển trênđịa bàn cả nước đã có biểu hiện ô nhiễm bởi tổng lượng chất thải rắn lơlửng (TSS), nhu cầu ô xy hóa học (COD), chất dinh dưỡng, Coliform...Đặcbiệt, ô nhiễm xuất hiện tại nhiều đoạn sông lấy nước cấp cho sinh hoạt.

Nhiễm mặn nguồn nước mặt đang là vấn đề nổi cộm ảnhhưởng đến nhiều nguồn nước và diện tích đất trồng trọt, nhất là ở khuvực Miền Nam . Nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng nước mặt venbiển là do thay đổi thời tiết, việc sử dụng nước thiếu kiểm soát củacác ngành kinh tế và các hộ gia đình, do mô hình canh tác chưa hợp lý.Biểu hiện TSS rõ nhất tại Ba Lạt, Định An và Rạch Giá; Xianua ở hầu hếtcác khu vực từ Trà Cổ đến Quy Nhơn và một số kim loại khác tại vùng BaLạt.

Tại các vùng khai thác mỏ và chế biến khoángsản, có đồng, thủy ngân và các chất phóng xạ gây ô nhiễm nước và trầmtích biển ngày càng gia tăng như ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh, ĐàNẵng, Dung Quất, Gành Rái, Rạch Giá. Cộng với hoạt động nuôi trồng thủysản phát sinh đáng kể chất thải rắn đổ trực tiếp ra biển. Với trên600.000ha nuôi tôm, hàng năm xả ra môi trường gần 3 triệu tấn chất thảirắn. Bên cạnh đó, sự suy thoái đất gia tăng cả về tốc độ và mức độnghiêm trọng với 3,2 triệu ha đất đồng bằng và ven biển bị thoái hóa. Ônhiễm đất ven biển còn do tác động xấu của của hàng loạt vấn đề như xóimòn, thoái hóa, nghèo dinh dưỡng, nhiễm mặn, axit hóa, ô nhiễm, hạn hán,ngập lụt, suy giảm chất hữu cơ, xói lở ở các bờ sông, bờ biển.

Vì vậy, để khai thác hiệu quả tiềm năng vùng biển và vùng ven biển,bảo vệ và duy trì lâu dài các giá trị tài nguyên sinh vật biển và môitrường biển, cần có Chiến lược quản lý tổng hợp đới bờ Việt Nam có tầmnhìn đến năm 2030, nhằm khắc phục các điểm yếu của phương cách quản lýtài nguyên, môi trường hiện hành, thông qua việc áp dụng giải pháp mangtính tổng hợp, hài hòa và tối ưu các mục tiêu sử dụng, đảm bảo tính vẹntoàn và khả năng cung cấp bền vững các sản phẩm và dịch vụ của các hệthống biển và ven biển./.

Văn Hào (TTXVN)

Tin cùng chuyên mục

Nhiều tuyến đường trung tâm xã Hàm Thuận bị ngập sâu, các phương tiện không thể lưu thông. (Ảnh: Nguyễn Thanh/TTXVN)

Lâm Đồng xuất hiện thêm nhiều điểm ngập mới

Trong đêm 4/12, tại phường Phú Thủy cũng xuất hiện những điểm ngập mới ở các khu dân cư ven sông, vùng trũng thấp, gần kênh thoát nước như: Khu phố Thanh Hải, khu phố Phú Hài 1, khu Xóm Ốc…