Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tính đến 31/3/2013, nợ thuế chuyên thu quá hạn của ngành hải quan là khoảng 6.003 tỷ đồng, so với thời điểm 31/12/2012 tăng khoảng 221 tỷ đồng.
Trong khi đó, số liệu của Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, tính đến 31/5/2013, tổng số thuế nợ quá hạn tại đơn vị trên 1.900 tỷ đồng. Trong đó, nợ không có khả năng thu hồi khoảng trên 600 tỷ đồng, giảm 27 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2012.
Đây là những con số rất đáng lo ngại trong bối cảnh nguồn thu ngân sách cực kỳ khó khăn.
Nhiều hạn chế do cơ chế chính sách
Lý giải con số 6.003 tỷ đồng nợ thuế chuyên thu quá hạn của ngành hải quan, bà Lỗ Thị Nhụ, Cục trưởng Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) cho biết, số nợ này đa số là nợ phát sinh trước khi Luật Thuế xuất nhập khẩu có hiệu lực thi hành (trước 1/1/2006). Theo đó, doanh nghiệp được nợ thuế mà không ràng buộc điều kiện phải là doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật thuế như Luật Quản lý thuế nên có một số doanh nghiệp chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể.
Hiện số nợ thuế giải thể, phá sản, bỏ trốn tại thời điểm này vẫn chưa được xử lý dứt điểm.
Trong khi đó, ngay cả khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ 1/7/2007 thì một số quy định của Luật vẫn gây khó khăn. Điển hình là quy định cho phép ân hạn nộp thuế trong thời gian dài đối với hàng tạm nhập-tái xuất và hàng hóa nhập khẩu khác (trừ hàng tiêu dùng) mà không phải bảo lãnh, dẫn đến khi đã giải phóng hàng, một số doanh nghiệp chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn hoặc dù có khả năng thanh toán vẫn dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn, không nộp thuế đúng hạn.
Không những thế, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 93 Luật Quản lý thuế sẽ không thật sự hiệu quả do quy trình thủ tục còn rườm rà, phức tạp.
Bên cạnh đó, tuy Luật Quản lý thuế có hiệu lực nhưng trong quá trình thực hiện một số điều Luật còn hạn chế như việc cho ân hạn nộp thuế trong thời gian dài đối với hàng tạm nhập-tái xuất và hàng hóa nhập khẩu khác (trừ hàng tiêu dùng) nhưng không phải bảo lãnh, nên khi đã giải phóng hàng, một số doanh nghiệp chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn hoặc dù có khả năng thanh toán vẫn dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn, không nộp thuế đúng hạn.
Một nguyên nhân nữa, đó là các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 93 Luật Quản lý thuế cũng bộc lộ những mặt hạn chế và chưa thực sự đủ răn đe. Trong khi đó, trong những tháng đầu năm 2013, số nợ thuế đang tăng lên điều này là do doanh nghiệp giải thể và phá sản khá nhiều.
Theo báo cáo mới nhất của Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong quý I/2013 có 13.011 doanh nghiệp ngừng hoạt động, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm 2012 và giảm 1,7% so với quý trước đó. Trong đó, số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 3.567, gần 9.500 đơn vị khác ngừng hoạt động nhưng chưa hoàn thành thủ tục đóng thuế…
Nhiều giải pháp mạnh mẽ
Trước tình trạng chây ỳ, nợ đọng thuế đang diễn biến khá phức tạp, Tổng cục Hải quan và các đơn vị liên quan cũng đang nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp mạnh mẽ để thu hồi các khoản thuế nợ đọng, tránh thất thu cho ngân sách.
Tổng cục Hải quan đã chú trọng tích cực triển khai các biện pháp thu đòi nợ thuế, cụ thể đã ban hành để chỉ đạo một cách quyết liệt công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng và không để phát sinh nợ mới.
Hiện Tổng cục Hải quan đang xây dựng Quy trình theo dõi và quản lý nợ thuế. Quy trình này sẽ quy định nội dung, trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện công tác theo dõi quản lý nợ thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, Quy trình cũng áp dụng để theo dõi quản lý nợ thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại cơ quan Hải quan các cấp.
Cụ thể, Quy trình đưa ra các tiêu chí phân loại nợ (nhóm nợ khó thu, nhóm nợ chờ xử lý, nhóm nợ có khả năng thu), các bước thực hiện quản lý nợ…
Bà Lỗ Thị Nhụ cho biết, để khắc phục tình trạng nợ thuế, ngành hải quan đã kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế; Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007, Nghị định 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ; Thông tư 194/2010/TT-BTC ngày 06/12/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế, theo hướng tăng cường công tác quản lý nợ thuế.
Theo đó, sẽ quy định chặt chẽ hơn điều kiện áp dụng thời hạn nộp thuế 275 ngày đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đảm bảo tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế; khắc phục tình trạng chây ỳ, dây dưa, kéo dài việc nộp thuế sau đó bỏ trốn gây thất thu thuế, thực hiện thu đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước.
Tổng Cục Hải quan cũng sẽ bổ sung quy định về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt đối với khoản nợ thuế đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế nhưng không có khả năng thu hồi, góp phần làm trong sạch nợ thuế.
Cùng với đó, bổ sung quy định về nộp dần tiền thuế trên cơ sở có cam kết của người nộp thuế và bảo lãnh của tổ chức tín dụng để giảm các trường hợp phải cưỡng chế thuế và hỗ trợ cho người nộp thuế.
Ngoài ra, ngành hải quan cũng kiến nghị sửa đổi các biện pháp cưỡng chế để tăng chế tài đối với việc nợ thuế. Cụ thể, sửa đổi bổ sung trong trường hợp người nộp thuế có hành vi bỏ trốn tẩu tán tài sản thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế quyết định việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp để đảm bảo thu hồi nợ thuế kịp thời cho ngân sách nhà nước.
Ngoài các kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách, công tác về tổ chức thực hiện cũng được Tổng cục Hải quan chú trọng như: nâng cấp hệ thống kế toán thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thành lập Ban thu hồi nợ thuế để định hướng, chỉ đạo giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện công tác thu hồi nợ; hướng dẫn các Cục, Chi cục Hải quan nâng cao trách nhiệm trong việc xử lý, thu hồi nợ, gắn trách nhiệm của cán bộ công chức với việc khen thưởng kỷ luật nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác thu hồi nợ; phối hợp cùng với các cơ quan Công an, cơ quan pháp luật, cơ quan thuế có liên quan để thu hồi nợ.
Cùng với ngành hải quan, ông Trịnh Hoàng Cơ, Vụ trưởng Vụ Quản lý nợ, Tổng cục Thuế cho biết, từ nay đến hết năm 2013, ngành thuế cũng sẽ triển khai nhiều biện pháp thu hồi nợ đọng.
Thứ nhất, ban hành văn bản hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế, trong đó có liên quan đến vấn đề quản lý nợ vì luật sửa đổi, bổ sung có nhiều điều khoản tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Thứ hai, xử lý vướng mắc với doanh nghiệp nảy sinh trong quá trình thanh tra, kiểm tra, giúp đối tượng nộp thuế hiểu cách tính của cơ quan thuế, từ đó nộp thuế đúng quy định.
Thứ ba, đôn đốc đối với doanh nghiệp nợ thuế khác theo đúng quy định, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư là phối hợp với các ban ngành tạo điều kiện tháo gỡ các vướng mắc chung trên địa bàn, để doanh nghiệp yên tâm nộp thuế.
Cuối cùng, "đối với những doanh nghiệp chây ỳ, chúng tôi sẽ tổ chức cưỡng chế" - ông Cơ nhấn mạnh./.
Trong khi đó, số liệu của Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, tính đến 31/5/2013, tổng số thuế nợ quá hạn tại đơn vị trên 1.900 tỷ đồng. Trong đó, nợ không có khả năng thu hồi khoảng trên 600 tỷ đồng, giảm 27 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2012.
Đây là những con số rất đáng lo ngại trong bối cảnh nguồn thu ngân sách cực kỳ khó khăn.
Nhiều hạn chế do cơ chế chính sách
Lý giải con số 6.003 tỷ đồng nợ thuế chuyên thu quá hạn của ngành hải quan, bà Lỗ Thị Nhụ, Cục trưởng Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) cho biết, số nợ này đa số là nợ phát sinh trước khi Luật Thuế xuất nhập khẩu có hiệu lực thi hành (trước 1/1/2006). Theo đó, doanh nghiệp được nợ thuế mà không ràng buộc điều kiện phải là doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật thuế như Luật Quản lý thuế nên có một số doanh nghiệp chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể.
Hiện số nợ thuế giải thể, phá sản, bỏ trốn tại thời điểm này vẫn chưa được xử lý dứt điểm.
Trong khi đó, ngay cả khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ 1/7/2007 thì một số quy định của Luật vẫn gây khó khăn. Điển hình là quy định cho phép ân hạn nộp thuế trong thời gian dài đối với hàng tạm nhập-tái xuất và hàng hóa nhập khẩu khác (trừ hàng tiêu dùng) mà không phải bảo lãnh, dẫn đến khi đã giải phóng hàng, một số doanh nghiệp chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn hoặc dù có khả năng thanh toán vẫn dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn, không nộp thuế đúng hạn.
Không những thế, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 93 Luật Quản lý thuế sẽ không thật sự hiệu quả do quy trình thủ tục còn rườm rà, phức tạp.
Bên cạnh đó, tuy Luật Quản lý thuế có hiệu lực nhưng trong quá trình thực hiện một số điều Luật còn hạn chế như việc cho ân hạn nộp thuế trong thời gian dài đối với hàng tạm nhập-tái xuất và hàng hóa nhập khẩu khác (trừ hàng tiêu dùng) nhưng không phải bảo lãnh, nên khi đã giải phóng hàng, một số doanh nghiệp chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn hoặc dù có khả năng thanh toán vẫn dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn, không nộp thuế đúng hạn.
Một nguyên nhân nữa, đó là các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 93 Luật Quản lý thuế cũng bộc lộ những mặt hạn chế và chưa thực sự đủ răn đe. Trong khi đó, trong những tháng đầu năm 2013, số nợ thuế đang tăng lên điều này là do doanh nghiệp giải thể và phá sản khá nhiều.
Theo báo cáo mới nhất của Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong quý I/2013 có 13.011 doanh nghiệp ngừng hoạt động, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm 2012 và giảm 1,7% so với quý trước đó. Trong đó, số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 3.567, gần 9.500 đơn vị khác ngừng hoạt động nhưng chưa hoàn thành thủ tục đóng thuế…
Nhiều giải pháp mạnh mẽ
Trước tình trạng chây ỳ, nợ đọng thuế đang diễn biến khá phức tạp, Tổng cục Hải quan và các đơn vị liên quan cũng đang nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp mạnh mẽ để thu hồi các khoản thuế nợ đọng, tránh thất thu cho ngân sách.
Tổng cục Hải quan đã chú trọng tích cực triển khai các biện pháp thu đòi nợ thuế, cụ thể đã ban hành để chỉ đạo một cách quyết liệt công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng và không để phát sinh nợ mới.
Hiện Tổng cục Hải quan đang xây dựng Quy trình theo dõi và quản lý nợ thuế. Quy trình này sẽ quy định nội dung, trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện công tác theo dõi quản lý nợ thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, Quy trình cũng áp dụng để theo dõi quản lý nợ thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại cơ quan Hải quan các cấp.
Cụ thể, Quy trình đưa ra các tiêu chí phân loại nợ (nhóm nợ khó thu, nhóm nợ chờ xử lý, nhóm nợ có khả năng thu), các bước thực hiện quản lý nợ…
Bà Lỗ Thị Nhụ cho biết, để khắc phục tình trạng nợ thuế, ngành hải quan đã kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế; Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007, Nghị định 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ; Thông tư 194/2010/TT-BTC ngày 06/12/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế, theo hướng tăng cường công tác quản lý nợ thuế.
Theo đó, sẽ quy định chặt chẽ hơn điều kiện áp dụng thời hạn nộp thuế 275 ngày đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đảm bảo tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế; khắc phục tình trạng chây ỳ, dây dưa, kéo dài việc nộp thuế sau đó bỏ trốn gây thất thu thuế, thực hiện thu đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước.
Tổng Cục Hải quan cũng sẽ bổ sung quy định về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt đối với khoản nợ thuế đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế nhưng không có khả năng thu hồi, góp phần làm trong sạch nợ thuế.
Cùng với đó, bổ sung quy định về nộp dần tiền thuế trên cơ sở có cam kết của người nộp thuế và bảo lãnh của tổ chức tín dụng để giảm các trường hợp phải cưỡng chế thuế và hỗ trợ cho người nộp thuế.
Ngoài ra, ngành hải quan cũng kiến nghị sửa đổi các biện pháp cưỡng chế để tăng chế tài đối với việc nợ thuế. Cụ thể, sửa đổi bổ sung trong trường hợp người nộp thuế có hành vi bỏ trốn tẩu tán tài sản thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế quyết định việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp để đảm bảo thu hồi nợ thuế kịp thời cho ngân sách nhà nước.
Ngoài các kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách, công tác về tổ chức thực hiện cũng được Tổng cục Hải quan chú trọng như: nâng cấp hệ thống kế toán thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thành lập Ban thu hồi nợ thuế để định hướng, chỉ đạo giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện công tác thu hồi nợ; hướng dẫn các Cục, Chi cục Hải quan nâng cao trách nhiệm trong việc xử lý, thu hồi nợ, gắn trách nhiệm của cán bộ công chức với việc khen thưởng kỷ luật nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác thu hồi nợ; phối hợp cùng với các cơ quan Công an, cơ quan pháp luật, cơ quan thuế có liên quan để thu hồi nợ.
Cùng với ngành hải quan, ông Trịnh Hoàng Cơ, Vụ trưởng Vụ Quản lý nợ, Tổng cục Thuế cho biết, từ nay đến hết năm 2013, ngành thuế cũng sẽ triển khai nhiều biện pháp thu hồi nợ đọng.
Thứ nhất, ban hành văn bản hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế, trong đó có liên quan đến vấn đề quản lý nợ vì luật sửa đổi, bổ sung có nhiều điều khoản tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Thứ hai, xử lý vướng mắc với doanh nghiệp nảy sinh trong quá trình thanh tra, kiểm tra, giúp đối tượng nộp thuế hiểu cách tính của cơ quan thuế, từ đó nộp thuế đúng quy định.
Thứ ba, đôn đốc đối với doanh nghiệp nợ thuế khác theo đúng quy định, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư là phối hợp với các ban ngành tạo điều kiện tháo gỡ các vướng mắc chung trên địa bàn, để doanh nghiệp yên tâm nộp thuế.
Cuối cùng, "đối với những doanh nghiệp chây ỳ, chúng tôi sẽ tổ chức cưỡng chế" - ông Cơ nhấn mạnh./.
Quốc Huy (TTXVN)