Tham vấn đánh giá giữa kỳ kế hoạch vay, trả nợ công thời kỳ 2021-2025

Theo Đánh giá giữa kỳ giai đoạn 2021-2025, hiện tổng mức vay của Chính phủ khoảng 1,370 triệu tỷ đồng; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 937.000 tỷ đồng, đạt 54,4% kế hoạch.
Tham vấn đánh giá giữa kỳ kế hoạch vay, trả nợ công thời kỳ 2021-2025 ảnh 1Quang cảnh hội thảo tham vấn đánh giá giữa kỳ Kế hoạch Vay, Trả Nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025. (Nguồn: Bộ Tài chính)

Ngày 17/8, Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Kinh tế Liên bang Thuỵ Sĩ tổ chức Hội thảo tham vấn đánh giá giữa kỳ Kế hoạch Vay, Trả Nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025.

Tại hội thảo, đại diện các bộ, ngành, địa phương thảo luận, đánh giá, phân tích về việc huy động, sử dụng vốn vay nợ giai đoạn 2021-2023. Bên cạnh đó, các chuyên gia quốc tế chia sẻ kinh nghiệm về quản lý nợ công và các khuyến nghị cho Việt Nam để phục vụ đánh giá giữa kỳ, giúp Bộ Tài chính hoàn thiện báo cáo.

Phát biểu tại hội thảo, ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 được triển khai thực hiện trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường cho những yếu tố tác động như dịch COVID-19, xung đột Nga-Ukraine và chính sách "không COVID" của Trung Quốc.

Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến không thuận lợi, Việt Nam đã duy trì được ổn định chính trị-xã hội, nền tảng kinh tế vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo.

[Phê duyệt Chương trình quản lý nợ công 3 năm giai đoạn 2022-2024]

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức do độ mở nền kinh tế cao nên dễ chịu tác động từ cú sốc bên ngoài. Tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường gây sức ép lên tài chính ngân sách.

Ông Trương Hùng Long cho biết Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình, trong thời gian tới, khoản vay ODA sẽ tiến tới kết thúc. Tỷ trọng vay ưu đãi và vay theo điều kiện thị trường tăng, dẫn đến chi phí vay vốn tăng lên, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất thế giới vẫn duy trì ở mức cao.

Theo ông Trương Hùng Long, giai đoạn vừa qua, việc quản lý nợ công đã đạt được một số kết quả nổi bật, an toàn nợ công được đảm bảo trong phạm vi mức trần, ngưỡng cảnh báo được Quốc hội phê duyệt.

Để đảm bảo huy động vốn vay cho ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển, Việt Nam thực hiện thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.

Năm 2022, trong bối cảnh nhiều quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm, Việt Nam được hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P nâng hạng tín nhiệm quốc gia, tổ chức Fitch giữ nguyên mức xếp hạng tín nhiệm.

Ông Andrea Coppola, Chuyên gia Kinh tế trưởng, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam đã có những cải cách quan trọng về quản lý nợ công bao gồm tăng cường khung pháp lý, quản lý thể chế...

Theo đại diện Ngân hàng Thế giới, khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình và sau là thu nhập cao thì sẽ phải đầu tư nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, để làm được điều này thì cần phải có mức tăng trưởng lớn.

Điều này không dễ dàng khi biến đối khí hậu đang tạo ra nhiều thách thức với Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu quản lý nợ phải thay đổi và tạo ra nhu cầu mới.

Bên cạnh đó, vai trò của Quỹ Bảo hiểm Xã hội là nguồn huy động lớn dần dần giảm xuống, điều đó có ý nghĩa chi phí huy động nợ tăng lên vì các huy động theo lãi suất thị trường.Trái phiếu hiện nay do các quỹ bảo hiểm xã hội nắm giữ sẽ phải huy động theo lãi suất thị trường, sau này quỹ sẽ không còn là nguồn lớn nữa.

Cục Quản lý Nợ và Tài chính Đối ngoại cho biết triển khai Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch Tài chính Quốc gia và Vay, Trả Nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 đến nay, các mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu định lượng Quốc hội đề ra đều đạt.

Cụ thể, tổng mức vay của Chính phủ khoảng 1,370 triệu tỷ đồng; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 937.000 tỷ đồng (đạt 54,4% kế hoạch); rút vốn các khoản chính phủ vay về cho vay lại khoảng 57.500 nghìn tỷ đồng, đảm bảo hạn mức không quá 222.000 tỷ đồng.

Cùng với đó, kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ năm 2021 đạt 13,92 năm; năm 2022 đạt 12,67 năm; năm 2023 dự kiến 12,6 năm, đảm bảo mục tiêu từ 9-11 năm; tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh chính phủ năm sau đảm bảo không vượt quá tốc độ tăng GDP danh nghĩa năm trước; các chỉ tiêu an toàn nợ từng năm giai đoạn 2021-2023 đảm bảo trong các mức trần và ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục