Theo giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn KimViệt, Chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần Đại học Y Hà Nội, Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâmthần, Phó Viện trưởng Viện Giám định pháp y tâm thần Trung ương cho biết những người mắc bệnh này có tỷ lệ ly dị cao gấp hai đến ba lần và suy giảm chứcnăng nghề nghiệp gấp hai lần so với những người không mắc.
Thừa nhận các hậu quảxấu này, Tổ chức Y tế Thế giới đã xác định rối loạn lưỡng cực là nguyên nhân gâyloạn hoạt năng đứng hàng thứ 6 trên toàn cầu. Hơn nữa, những bệnh nhân mắc bệnhnày có nguy cơ tự tử rất cao. Theo ước tính, từ 25-50% số bệnh nhân rốiloạn lưỡng cực có toan tính tự tử ít nhất một lần trong đời.
Rối loạn lưỡng cực là một rối loạn thường gặp trong tâm thần học, đặc trưng bởicác giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ xen kẽ hoặc đi kèm với các giai đoạntrầm cảm. Tại Mỹ tỷ lệ mắc bệnh rối loạn lưỡng cực là 4,4%.
Tại Việt Nam chưa có điều tra thống kê chính thức, nhưng theo ghi nhận tạiViện Sức khỏe Tâm thần Bạch Mai năm 2001, bệnh nhân rối loạn lưỡng cựcchiếm 8,7% trên tổng số bệnh nhân điều trị nội trú tại đây.
Theo bác sĩ Nguyễn Kim Việt, tuổi khởi phát bệnh rất sớm, 60% là ở trẻ em và vịthành niên, trong đó một phần ba là ở trẻ dưới 15 tuổi. Một trong những triệuchứng bệnh này ở trẻ em phổ biến thời đại hiện nay là trẻ bị nghiện chơi gameonline và Internet.
Bệnh rối loạn lưỡng cực cần được chăm sóc y tế toàn diện, lâu dài từ giađình và xã hội. Song quan trọng là bệnh phải được chẩn đoán đúng và điều trị sớmđể giúp bệnh nhân vượt qua những triệu chứng và các suy giảm chức năng liênquan.
Tuy nhiên, hiện nay đây lại là một vấn đề nan giải do việc chẩn đoán sai và điềutrị chậm trễ. Nghiên cứu cho thấy có đến 69% các trường hợp có chẩn đoán sai vàchậm trễ đến 20 năm kể từ khi khởi phát.
Việc chẩn đoán bệnh rối loạn lưỡng cực hiện chỉ tập trung hoặc dừng lạiở các triệu chứng trầm cảm, và thường bỏ sót các triệu chứng hưng cảm. Vì thếhơn 60% số bệnh nhân người lớn bị rối loạn lưỡng cực được chẩn đoán banđầu là trầm cảm đơn cực, làm cho tiên lượng lâu dài của người bệnh xấu hơn. Việcđiều trị có thể kém hiệu quả ở những bệnh nhân đã trải qua một vài giai đoạnbệnh không được điều trị hoặc điều trị không đúng./.