Chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở VN tiệm cận các nước phát triển

Việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến về chẩn đoán và can thiệp ung thư vú sẽ giúp bệnh nhân có được kết quả điều trị tích cực, khả quan ngay tại Việt Nam mà không cần ra nước ngoài.
Các bác sỹ thực hiện kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang cho một bệnh nhân. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Các bác sỹ thực hiện kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang cho một bệnh nhân. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Hiện nay, trình độ chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở Việt Nam đang tiệm cận với xu hướng ở các quốc gia có nền y học phát triển như Pháp hay Hàn Quốc…

Thông tin trên được đưa ra tại Hội nghị khoa học với chủ đề “Cập nhật kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú,” diễn ra ngày 2/4 tại Hà Nội.

[Tỷ lệ mắc mới, tử vong do bệnh ung thư ở Việt Nam tăng nhanh]

Tại hội nghị, Giáo sư Đào Thu Hà - Trưởng đơn vị hình ảnh tuyến vú, Bệnh viện Henri Mondo (Cộng hòa Pháp), chủ tọa hội nghị cho biết việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến về chẩn đoán và can thiệp ung thư vú sẽ giúp bệnh nhân có được kết quả điều trị tích cực, khả quan ngay tại Việt Nam mà không cần ra nước ngoài.

Theo thống kê của Tổ chức Ghi nhận Ung thư toàn cầu (Globocan), tại Việt Nam mỗi năm ung thư vú chiếm 25% bệnh ung thư ở nữ giới với gần 22.000 ca mắc mới và hơn 9.000 ca tử vong. Nếu như tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn rất sớm đạt 98%, ở giai đoạn cuối tỷ lệ này chỉ còn khoảng 10%.

Chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở VN tiệm cận các nước phát triển ảnh 1Giáo sư Đào Thu Hà - Trưởng đơn vị hình ảnh tuyến vú, Bệnh viện Henri Mondo (Cộng hòa Pháp) phát biểu tại hội nghị. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Vì vậy, việc các bác sỹ, chuyên gia về lĩnh vực ung thư trên cả nước tham gia trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật kiến thức mới nhất trên thế giới tại hội nghị cũng cho thấy quyết tâm tiếp cận kiến thức, nâng cao năng lực điều trị ung thư vú cho phụ nữ Việt Nam.

Không chỉ cập nhật kiến thức về các phương pháp mới, trong khuôn khổ hội nghị, các bác sỹ tham dự đã trực tiếp thực hành trên mô hình một số kỹ thuật can thiệp dưới hướng dẫn siêu âm (chọc hút tế bào bằng kim nhỏ, sinh thiết tổn thương vú bằng kim lõi và kim lớn) và hướng dẫn x-quang (đặt định vị kim dây, sinh thiết tổn thương tuyến vú bằng kim lớn).

Tiến sỹ Nguyễn Thu Hương - Giám đốc Đơn vị bệnh lý tuyển Vú, Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Times City; Cố vấn chuyên môn cho Mạng lưới Ung thư Vú Việt Nam chia sẻ từ kết quả thực hành cũng như các báo cáo, thảo luận trong hội nghị cho thấy trình độ chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở Việt Nam đang tiệm cận với xu hướng ở các quốc gia có nền y học phát triển như Pháp hay Hàn Quốc, giúp người bệnh có cơ hội được điều trị tốt hơn, đảm bảo chất lượng cuộc sống.

Chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở VN tiệm cận các nước phát triển ảnh 2TS.BS Nguyễn Thu Hương trao đổi tại Hội nghị khoa học "Cập nhật Kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú". (Ảnh: PV/Vietnam+)

Theo các chuyên gia, ung thư vú là bệnh ung thư có tỷ lệ mắc đứng hàng thứ nhất trong các bệnh ung thư ở nữ giới trên Thế giới và tại Việt Nam. Trên thế giới mỗi năm có khoảng 2 triệu người mắc mới và khoảng 600.000 người tử vong.

Sàng lọc ung thư vú trên các nhóm đối tượng nguy cơ cao giúp phát hiện sớm bệnh. Nếu như tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn rất sớm đạt 98% thì ở giai đoạn cuối tỷ lệ này chỉ còn khoảng 10%. Hiện nay, nhờ những tiến bộ trong sàng lọc, chẩn đoán, cũng như điều trị, bệnh ung thư vú có thể được phát hiện ở giai đoạn sớm, gia tăng tỷ lệ điều trị khỏi cũng như kéo dài thời gian sống, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh ở giai đoạn muộn.

Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành quyết định số 1639/QĐ-BYT về việc bổ sung tài liệu hướng dẫn hoạt động dự phòng, sàng lọc phát hiện sớm và quản lý ung thư vú, ung thư cổ tử cung tại cộng đồng. Vì vậy, các bác sỹ khuyến cáo chị em phụ nữ nên một năm tầm soát ung thư vú một lần để phát hiện bệnh trong giai đoạn sớm.

Tại hội nghị, các chuyên gia đã trình bày 13 bài báo cáo chuyên sâu về các phương pháp trong chẩn đoán, can thiệp sớm và điều trị ung thư vú, trong đó nổi bật về giá trị lâm sàng là kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang và xạ hình hạch gác trong mổ. Đây là các kỹ thuật phức tạp đang được ứng dụng tại một số bệnh viện lớn của Việt Nam giúp phát hiện sớm bất thường liên quan tới ung thư vú để đưa ra phương pháp can thiệp kịp thời, mang lại hiệu quả điều trị cao cho bệnh nhân./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục