Lập hồ sơ hát Then

Lập hồ sơ đề nghị hát Then là Di sản văn hóa TG

Hát Then, Tuyên Quang đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể.
Đồng bào dân tộc Tày tỉnh Tuyên Quang có 160.000 người, chiếm 24% dân số.

Về văn nghệ dân gian, người Tày có chuyện kể truyền miệng, âm nhạc, múa, ca dao, hát lượn, hát ru… nhưng đáng chú ý nhất vẫn là hát Then - “món ăn” tinh thần, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng dân cư và đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lập hồ sơ để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Nguồn gốc điệu Then

Ông Ma Văn Đức, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quan, Chủ nhiệm đề tài “Then Tày Tuyên Quang” cho biết Then là những khúc hát, điệu múa thuộc thể loại dân ca nghi lễ, phong tục từ lâu đời của dân tộc Tày. Then xuất phát từ chữ “Thiên” - tức là Trời. Bởi vậy, điệu hát Then vẫn được người Tày tỉnh Tuyên Quang coi là điệu hát thần tiên.

Cũng theo ông Đức, nguồn gốc của hát Then tỉnh Tuyên Quang hiện chưa có sự thống nhất. Theo như cố nghệ nhân Hà Phan, xã Tân Mỹ, huyện Chiêm Hóa, Then xuất hiện từ thời nhà Mạc. Quân nhà Mạc thua trận, Vua suy nghĩ quá nhiều sinh ốm. Các quần thần biết Vua ốm do tư tưởng chứ không phải do bệnh tật nên cử đội nhạc hát cung đình tổ chức múa hát Then suốt ba ngày ba đêm, Vua thấy vui và khỏi bệnh. Từ đó ai ốm đều tìm những người biết hát múa Then đến biểu diễn… Còn theo cố nghệ nhân Ma Thanh Cao, xã Tri Phú, huyện Chiêm Hóa, hát Then có từ thế kỷ thứ VIII…

Dẫu chưa có sự thông nhất về nguồn gốc, nhưng trong nhiều thế kỷ qua, hát Then là món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào dân tộc Tày tỉnh Tuyên Quang.

Theo điều tra khảo sát của tỉnh Tuyên Quang, vùng hát Then hiện tập trung chủ yếu ở các huyện Chiêm Hóa, Nà Hang, Lâm Bình và một số xã của các huyện Sơn Dương, Yên Sơn và Hàm Yên. Trong đó, số người biết hát Then theo nghi lễ phong tục cổ truyền toàn tỉnh Tuyên Quang hiện có 21 người; số người biết hát Then theo lời mới, từ phong trào văn nghệ quần chúng có 72 người (50 nam, 22 nữ)…

Then ra đời trong lao động sản xuất, từ nhu cầu đời sống tinh thần và tín ngưỡng phản ánh trí tuệ, nhận thức, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, phong tục tập quán, là tiếng nói của nhân dân lao động, chứa đựng nhiều nội dung tư tưởng, tình yêu lứa đ

Điệu hát mượt mà, đằm thắm

Theo nghệ nhân Hà Thuấn, xã Tân An, huyện Chiêm Hóa - người dân tộc Tày đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phong tặng nghệ nhân văn hóa dân gian, cho biết Then Tuyên Quang có đặc trưng là giai điệu mượt mà, đằm thắm và mở đầu câu hát bao giờ cũng có từ "ới la." Từ “ới la” có nghĩa là khát vọng giao đãi của con người với trời đất, thiên nhiên, vạn vật. Cấu trúc âm nhạc của Then Tuyên Quang là các quãng âm nhạc gần nhau hơn tạo âm hưởng đầm ấm của con người xứ Tuyên.

Then Tuyên Quang có một số làn điệu cổ như Then cấp sắc công nhận một người đủ điều kiện làm thầy cúng, lo việc tâm linh của bản làng; Then kỳ yên (cầu điều lành và điều tốt) và Then lễ hội.

Theo giải thích của ông Thuấn, Then kỳ yên có nội dung chủ yếu, cầu chúc, chữa bệnh. Lễ cầu yên được tổ chức vào dịp cuối năm hoặc đầu năm tùy thuộc vào từng nơi để thiết đãi tổ tiên, cầu mong tổ tiên phù hộ: Hộ cho tín chủ bình yên/ Sống lâu trường thọ xiên niên tuổi già/…Từ nay phúc lộc hữu dư/Vinh hoa phú quý Xuân, Thu, Đông, Hè. (bài “Phủ đẳm tiên”).

Còn Then lễ hội thiên về giải quyết tinh thần cho vui vẻ, xua tan phiền muộn, cực nhọc vất vả trong cuộc sống để thỏa mãn ước vọng con người và muôn vật sinh linh. Nhóm khúc hát này thường gặp là Then lễ vào nhà mới, cấp sắc, cầu mùa, lễ cốm… với mong muốn cầu mong mùa màng tốt tươi, mong thần Nông mưa thuật gió hòa.

Một điều đáng chú ý nữa, theo các nghệ nhân, Then là tổng hợp các bộ môn văn học, nghệ thuật dân gian. Trong then có các thể loại truyện (thần thoại, cố tích, truyền thuyết, ngụ ngôn). Nhiều tích truyện có nội dung giải thích nguồn gốc một sộ sự vật, hiện tượng về vũ trụ, thiên nhiên… cách giải thích đơn giản, mộc mạc, nhưng khá ly kỳ, phản ánh thế giới quan của người Tày xưa.

Theo thầy Then Hà Ngọc Vịnh, huyện Chiêm Hóa, ngày xưa, hát Then chỉ dùng để cúng bái, giao tiếp với thần linh trong các cuộc lễ như: lễ khẩu mẩu (lễ cốm), lễ cấp sắc, lễ cầu mùa, cầu mưa... người ta có thể hát cả giờ đồng hồ, đôi khi là thâu đêm. Còn bây giờ ngoài những làn điệu Then cổ còn giữ lại thì các bài Then mới chủ yếu là bài hát ca ngợi quê hương, tình yêu đôi lứa, tình yêu lao động.

Ông Nguyễn Vũ Phan, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang cho biết hát Then là món ăn tinh thần, nó đã được ngấm vào máu và hồn của người Tày. V iệc Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đồng ý về chủ trương với đề nghị của tỉnh Tuyên Quang về việc lập hồ sơ Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu hát Then của dân tộc Tày tỉnh Tuyên Quang và một số tỉnh khu vực Việt Bắc để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đ ây thực sự là cơ hội lớn để hát Then của dân tộc Tày nói chung và ở Tuyên Quang nói riêng được cả thế giới biết đến, là cú huých cho phát triển du lịch.

Cũng theo ông Phan, trong thời gian tới, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang sẽ làm việc với ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang để giới thiệu bộ môn hát Then vào các trường học, bảo đảm thế hệ trẻ là người dân tộc Tày, Nùng, Thái được tiếp thu làn điệu Then, góp phần tích cực đưa hát Then sống trong lòng quần chúng nhân dân. Đồng thời, tổ chức sưu tầm, tập hợp tư liệu, sách cổ về hát Then đang lưu giữ trong nhân dân để dịch ra tiếng phổ thông làm tài liệu tuyên truyền…/.

Vũ Quang Đán (TTXVN)

Tin cùng chuyên mục