Việt Nam sở hữu kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, bao gồm di tích, lễ hội, nghệ thuật dân gian, làng nghề và ẩm thực của 54 dân tộc anh em. Đây là nguồn lực quan trọng để xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng, vừa bảo tồn bản sắc dân tộc, vừa phát triển kinh tế.
Nhiều di sản văn hóa của đồng bào đang xuống cấp, bị khai thác tự phát, cộng đồng thiếu quyền chủ động, nhân lực quản lý và nghệ nhân trẻ còn hạn chế, sản phẩm du lịch chưa phát huy đầy đủ bản sắc vùng miền.
Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Quang Thanh, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus về một số giải pháp phát huy văn hóa dân tộc, tạo nền tảng phát triển du lịch địa phương.
'Kho vàng' di sản văn hóa
- Thưa ông, ông có đánh giá như thế nào về công tác bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc hiện nay?
Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Quang Thanh: Cộng đồng 54 dân tộc anh em luôn tự hào về kho tàng di sản văn hóa khổng lồ, đa dạng về bản sắc, giàu có về giá trị của các dân tộc do các thế hệ tiền nhân sáng tạo, gìn giữ, trao truyền cho hậu thế.
Kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam còn bao gồm các hệ thống di sản văn hóa phi vật thể khổng lồ với những phong tục, tập quán, luật tục, hương ước, nghệ thuật diễn xướng, mỹ thuật, kiến trúc dân gian, các sản phẩm nghề thủ công...
Trong khi đó, hiện tại các làng bản trên phạm vi cả nước vẫn còn hàng chục nghìn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể khác dù chưa được xếp hạng, nhưng đã và đang là điểm tựa tinh thần, là nguồn tài nguyên văn hóa quan trọng góp phần xây dựng thiết chế văn hóa cộng đồng, được cộng đồng tin yêu, gìn giữ và trở thành môi trường thực hành tín ngưỡng văn hóa mang giá trị tích cực với đời sống văn hóa xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức sâu sắc về những vấn đề văn hoá dân tộc và việc khai thác, bảo tồn, phát huy các giá trị bản sắc văn hoá dân tộc, sớm định hướng cho quá trình phát triển du lịch văn hóa nói riêng và phát triển văn hoá quốc gia nói chung.
Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng đã và đang hiện hữu ở hầu khắp các vùng miền, cũng phải nghiêm túc và khách quan mà nhận thấy rằng: Việc bảo tồn, tôn tạo hay khôi phục và sáng tạo, phát triển các sản phẩm văn hóa mang các giá trị di sản khác nhau của các tộc người trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc thông qua con đường du lịch hay việc khai thác các giá trị di sản để phát triển ngành “công nghiệp không khói” ở nước ta vẫn chưa đạt được mục tiêu và hiệu quả như mong muốn.
- Ông có thể đưa ra một số nhận định về sản phẩm du lịch văn hóa của các dân tộc thiểu số?
Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Quang Thanh: Ở bất cứ vùng, miền nào của đất nước, các dân tộc thiểu số đều sáng tạo và trao truyền lại được kho tàng di sản giàu giá trị thể hiện qua các hệ thống di tích lịch sử-văn hóa, văn hóa dân gian, lễ hội, phong tục, tập quán, ẩm thực, tri thức bản địa, lễ hội, trang phục, trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, mang bản sắc riêng của văn hóa tộc người. Và thật độc đáo khi ở mỗi vùng, tiểu vùng lại có những di sản văn hóa, sản phẩm văm hóa mang bản sắc đặc trưng của những dân tộc, tộc người đại diện.
Tôi nêu ví dụ: Khu vực Việt Bắc với sức cuốn hút của văn hóa Tày-Nùng, Cao Lan-Sán Chí, Mông-Dao; khu vực Tây Bắc với sức cuốn hút của văn hóa Mông- Dao-Thái; khu vực Trung Bộ với sức cuốn hút của văn hóa Mường, Thái, Chăm. khu vực Trường Sơn-Tây Nguyên với sức cuốn hút của văn hóa cồng chiêng các dân tộc Ba Na, M’nông, Ê đê, Gia Rai…
Chúng ta đã và đang có một nền tảng quý báu vững chắc làm điểm tựa cho thế mạnh phát triển du lịch nói chung và phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng các dân tộc thiểu số nói riêng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phát huy các giá trị di sản thông qua con đường du lịch trong đó có nhiệm vụ khai thác và phát huy các giá trị để phát triển sản phẩm du lịch văn hóa ở Việt Nam còn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Hình thành các thương hiệu du lịch địa phương
- Theo ông, nguyên nhân vì sao dẫn đến thực trạng nói trên?
Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Quang Thanh: Cho đến nay, hầu khắp các làng bản tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp làm du lịch (quản lý các di tích lịch sử văn hóa, tổ chức du lịch cộng đồng - homestay, bảo vệ rừng thiêng, nguồn nước, thực hành tín ngưỡng…) chưa xây dựng được kế hoạch dài hạn hoặc chiến lược xúc tiến phát triển sản phẩm du lịch văn hóa cụ thể, phù hợp với địa phương và văn hóa tộc người. Đội ngũ quản lý văn hóa chưa có được nhận thức sâu sắc về vai trò và giá trị cuẩn phẩm du lịch văn hóa vừa quen thuộc và mang tính đặc thù vừa dễ bị bỏ qua.
Thêm vào đó, việc khai thác tùy tiện, tự phát và nóng vội trong quá trình quảng bá di sản với mục tiêu sớm thu lợi nhuận đã và đang đe dọa tính bền vững của di sản.
Tại hầu khắp các địa phương cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số và khu vực miền núi, đã và đang có biểu hiện tất cả vì mục tiêu phát triển kinh tế (kinh tế tư nhân, kinh tế địa phương), thiếu sự đầu tư lại từ du lịch cho quá trình bảo vệ, tu bổ di tích, trang bị hỗ trợ cho các sinh hoạt lễ hội, thực hành tín ngưỡng, bảo vệ không gian hiện tồn di sản theo Luật di sản văn hóa và Luật tín ngưỡng tôn giáo.
Trong khi đó, sự quan tâm đến các nguồn nhân lực còn mờ nhạt, đặc biệt là các thế hệ nghệ nhân và đội ngũ được đào tạo chuyên ngành hướng dẫn du lịch.
- Ông có thể đưa ra một số giải pháp để sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử-văn hóa các dân tộc thiểu số trên đất nước ta góp phần thúc đẩy phát triển sản phẩm du lịch văn hóa và thực hiện Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa?
Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Quang Thanh: Theo tôi, đầu tiên phải củng cố lòng tin và niềm tự hào của đồng bào các dân tộc thiểu số về các giá trị di sản văn hoá truyền thống thông qua việc tôn trọng lịch sử, tiếng nói, chữ viết và di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của từng cộng đồng dân tộc. Nhà nước và cấp tỉnh thực hiện tốt chính sách tôn vinh các nghệ nhân tiêu biểu trong văn hoá các dân tộc thiểu số.
Song song với đó là nâng cao dân trí, nhận thức. Ở đây là từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật và tầng lớp trí thức người dân tộc, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hành động phát triển sản phẩm du lịch văn hóa mang bản sắc đặc trưng văn hóa tộc người tại điểm đến,vùng, miền, tổ chức thực hiện để tạo ra và tiêu thụ sản phẩm du lịch hướng tới hình thành các thương hiệu du lịch địa phương.
Trong quá trình phát triển, chúng ta cần xây dựng và bảo vệ môi trường văn hoá các địa phương. Nhóm giải pháp này bao gồm việc bảo vệ các cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống làng bản; tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, xuất bản và phát huy các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể trong văn hoá các tộc người; xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hoá cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số.
- Xin trân trọng cảm ơn ông./.
423.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc
Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới và phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 2026-2035 phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng dân tộc thiểu số xuống dưới 10%.