Bài 3: ‘Cần nuôi dưỡng tài năng, khơi dậy khát vọng làm văn hóa’

Công nghiệp văn hóa: Tiềm năng đang chờ được 'đánh thức'

Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là "chất liệu" cho công nghiệp văn hóa Việt Nam khởi sắc nhưng "mỏ vàng" ấy cần được đầu tư đúng cách thì mới khơi dậy hết tiềm năng.
Vở ballet Hồ thiên nga của Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Vở ballet Hồ thiên nga của Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)

Bài 3: ‘Cần nuôi dưỡng tài năng, khơi dậy khát vọng làm văn hóa

Để phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trở thành một trong những trụ cột của nền kinh tế, nhiều chuyên gia cho rằng cần hoàn thiện thể chế, chính sách cũng như sự đầu tư thích đáng để tạo đà cho những sáng tạo văn hóa nghệ thuật “cất cánh.”

Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam từng chia sẻ tại nhiều diễn đàn rằng Việt Nam có nhiều "chất liệu" nhưng vẫn chưa có các sản phẩm văn hóa đẳng cấp quốc tế do chưa có sự đầu tư tương xứng.

Chia sẻ với báo VietnamPlus, bà trăn trở: “Đừng để nghệ sỹ giỏi phải sống trong những cơ sở xập xệ. Cần có điều kiện nuôi dưỡng tài năng, khơi dậy khát vọng sáng tạo cho họ…”

Phát huy “sức mạnh mềm”

- Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ văn hóa là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Theo bà, ngành công nghiệp văn hóa có sứ mệnh ra sao trong việc thực hiện mục tiêu trên?

PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương: Nếu như trước 2016, công nghiệp văn hóa là một khái niệm còn nhiều xa lạ ở Việt Nam, thì đến năm 2018, kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy ngành công nghiệp văn hóa được nhiều người biết đến nhất là truyền hình-phát thanh và điện ảnh, tiếp đến là những ngành quảng cáo; kiến trúc; du lịch văn hóa; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; thủ công mỹ nghệ; xuất bản; thiết kế; thời trang.

Công nghiệp văn hóa: Tiềm năng đang chờ được 'đánh thức' ảnh 1Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam. (Ảnh: VICAS)

Từ năm 2016 đến nay, nhìn chung, các chính sách liên quan đến công nghiệp văn hóa Việt Nam đều hướng đến việc xem xét các sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường, chú ý đến nhu cầu văn hóa của người dân, quan tâm nhiều hơn đến vai trò của xã hội dân sự trong việc hỗ trợ sáng tạo và bảo vệ quyền lợi cho các nghệ sỹ.

Với những thay đổi thể chế mang tính tích cực, Việt Nam đã từng bước gắn các thành tố sức mạnh mềm văn hóa với tiến trình các ngành công nghiệp văn hóa để tái cơ cấu nền kinh tế sang hướng kinh tế tri thức, từ đó chuyển hóa nguồn tài nguyên mềm văn hóa thành năng lực cạnh tranh, sức thu hút, hấp dẫn và hội nhập quốc tế.

Trên bình diện hợp tác quốc tế, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa cũng luôn được Việt Nam coi trọng như là một ưu tiên chính sách trong khi ký kết các văn bản hợp tác giữa Việt Nam và các nước/tổ chức đối tác khác.

[Thúc đẩy, vận hành điện ảnh như một ngành kinh tế, công nghiệp văn hóa]

Nhiều hội thảo quốc tế và trong nước đã lấy chủ đề phát triển công nghiệp văn hóa là nội dung chính. UNESCO, Hội đồng Anh, Viện Goethe, các đại sứ quán Đan Mạch, Thụy Điển… đã có nhiều tư vấn giúp Việt Nam nâng cao hiểu biết, nhận thức về phát triển công nghiệp văn hóa trong đời sống xã hội.

- Bà đánh giá đâu là những thay đổi tích cực của các ngành công nghiệp văn hóa trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội?

PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương: Có thể nói, phát triển công nghiệp văn hóa đang được nhìn nhận như một ngành kinh tế có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường trong và ngoài nước.

Sự thay đổi này cho thấy công nghiệp văn hóa Việt Nam đang phát huy tương đối hiệu quả các thành tố sức mạnh mềm văn hóa thông qua hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa, dần rút ngắn khoảng cách cạnh tranh với các nền công nghiệp văn hóa trên thế giới.

Công nghiệp văn hóa: Tiềm năng đang chờ được 'đánh thức' ảnh 2Nền văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc là chất liệu để phát triển công nghiệp văn hóa. (Ảnh: PV/Vietnam+)

- Việt Nam đang có một thị trường 100 triệu dân đầy hứa hẹn. Nhà nước cũng đang có những nỗ lực mạnh mẽ nhằm thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Vậy tại sao ngành công nghiệp này vẫn chưa phát huy hết thế mạnh của nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú, thưa bà?

PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương: Thực tế, người Việt vẫn ưu ái hàng ngoại nhiều hơn hàng nội. Có thể thấy, các sản phẩm công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện vẫn còn thiếu sự độc đáo, tính ứng dụng và cách thể hiện sống động bản sắc văn hóa. Do đó, những sản phẩm văn hóa “made in Việt Nam” chưa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa ngày càng cao người dân trong nước. Điều này dẫn đến thị trường văn hóa trong nước đang bị xâm lấn bởi các sản phẩm công nghiệp văn hóa đến từ các cường quốc văn hóa cùng khu vực châu Á với Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc.

Có thể thấy rằng cơ sở hạ tầng giàu bản sắc và 198 không gian sáng tạo phân bổ trên toàn quốc là một lợi thế để Việt Nam khai thác chuyển hóa thành sức mạnh mềm văn hóa. Tuy nhiên, đổi mới thể chế chưa quyết liệt trong việc mở cửa cho khu vực tư nhân để phát huy hiệu quả cơ sở hạ tầng và các không gian sáng tạo văn hóa. Mặt khác, việc chưa xem công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực có sự kết hợp chặt chẽ giữa sáng tạo, công nghệ và bản quyền đã làm cho nguồn tài nguyên này chưa tạo được ấn tượng thu hút đối với người nước ngoài.

Một hạn chế nữa là việc hướng dẫn người dân phân biệt và làm đúng quá trình từ quyền tác giả của tác phẩm đến quyền phát triển và thương mại sản phẩm công nghiệp văn hóa, bao gồm quyền thuê/cho thuê, quyền phát triển sản phẩm phái sinh, tặng bản quyền, quyền thu lợi nhuận trên sản phẩm công nghiệp văn hóa được sử dụng, kinh doanh bởi các bên thứ ba... vẫn còn yếu và thiếu.

Rõ ràng, việc phát huy sức mạnh mềm văn hóa thông qua công nghiệp văn hóa vẫn còn là một mắt xích yếu trong phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia.

Các ngành công nghiệp văn hóa khó chuyển mình trong sự phân tách, cộng thêm những rào cản về thể chế làm chậm quá trình biến văn hóa thành một lĩnh vực đầu tư, tạo điều kiện cho giải phóng sức sáng tạo, đa dạng hóa các biểu đạt thể hiện bản sắc... Đây chính là điểm yếu cốt tử trong việc hiện thực hóa mục tiêu coi công nghiệp văn hóa là kênh truyền dẫn mũi nhọn phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam hiện nay.

Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa

- Vậy Việt Nam cần làm gì để đạt được mục tiêu bứt phá trong ngành công nghiệp này, thưa bà?

PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương: Theo tôi, cần phát triển công nghiệp văn hóa theo hướng hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; bảo đảm yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa thích ứng với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và các công nghệ mới, hiện đại.

Ngoài ra, cơ quan Nhà nước cần chủ động hợp tác, xúc tiến thương mại và quảng bá các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam ra thế giới nhằm mở rộng thị trường, phát huy sức mạnh mềm văn hóa, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Công nghiệp văn hóa: Tiềm năng đang chờ được 'đánh thức' ảnh 3Các chuyên gia nước ngoài nghiên cứu tư liệu châu bản triều Nguyễn. (Ảnh: PV/Vietnam+)

- Bà có thể chia sẻ các giải pháp cụ thể để đạt được mục tiêu nói trên?

PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương: Tôi cho rằng, trong thời gian tới công nghiệp văn hóa cần phát triển theo hướng hài hòa giữa kinh tế và văn hóa đồng thời thích ứng với xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các công nghệ mới, hiện đại.

Cụ thể, Nhà nước cần hoàn thiện khung thể chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những nút thắt, hình thành khung pháp lý, thể chế nhằm phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực cho công nghiệp văn hóa phát triển theo hướng đáp ứng yêu cầu thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế.

Hai là hoàn thiện thị trường văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa. Nhà nước cần có cơ chế ưu đãi, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Mặt khác, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế, như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, du lịch văn hóa...; thúc đẩy phát triển các loại hình nghệ thuật đương đại, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp văn hóa...

Ba là đổi mới cơ chế đầu tư tài chính trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Vấn đề tạo ra “không gian sáng tạo” hay môi trường sáng tạo cũng là một giải pháp quan trọng cho việc phát huy sức mạnh mềm văn hóa nước ta hiện nay. Việc bồi dưỡng năng lực sáng tạo và tạo môi trường sáng tạo cho những tài năng văn hóa (văn nghệ sỹ, trí thức khoa học công nghệ) cũng là giải pháp rất căn bản của sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa bên cạnh các giải pháp khác.

Bốn là đầu tư phát triển hạ tầng các ngành công nghiệp văn hóa. Việc phát triển các hạ tầng cơ sở sẽ giúp Việt Nam bảo đảm nền tảng số hóa thuận lợi cho sự phát triển quyền lực mềm, gia tăng khả năng và cách thức tiếp cận đến đối tượng, mang lại năng lực thích ứng nhanh trước các xu hướng thị trường trong ngành công nghiệp văn hóa.

Cuối cùng là đổi mới phương thức khai thác, tăng cường kết nối truyền thống với hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phân phối các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa./.

Xem toàn bộ loạt bài trong series này:

Bài 1: “Ba chìm bảy nổi” với công nghiệp văn hóa

Bài 2: Làm gì để khai thác ‘Con gà đẻ trứng vàng’ công nghiệp văn hóa?

Bài 3: ‘Cần nuôi dưỡng tài năng, khơi dậy khát vọng làm văn hóa’

Bài 4: Cần lắm những cái “bắt tay” để khơi thông mạch nguồn sáng tạo

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục