Trong báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074” do Cục Thống kê công bố mới đây đưa ra thông tin dự báo Việt Nam thiếu khoảng 1,3 triệu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn vào năm 2049.
Dự báo này trình bày số liệu về quy mô dân số năm 2024 từ kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, đồng thời dự báo quy mô dân số của toàn quốc, khu vực thành thị, nông thôn, 6 vùng kinh tế-xã hội và 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho giai đoạn 2024-2074.
3 kịch bản mức sinh của Việt Nam trong tương lai
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên đánh giá, bên cạnh những thành tựu đã đạt được của công tác dân số trong kết quả phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, thì công tác dân số vẫn còn một số khó khăn, thách thức. Những hạn chế, khó khăn chủ yếu, đó là: không ít địa phương, mức sinh đã giảm dưới mức sinh thay thế. Tốc độ già hóa dân số tăng nhanh. Mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức cao…
Chính vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của công tác dân số trong thời gian tới cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành và đảm bảo nguồn lực cho cho công tác dân số nhằm giải quyết được các hạn chế, khó khăn đảm bảo phát triển bền vững của đất nước.
Theo dự báo của Cục Thống kê, dân số Việt Nam tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án trung bình trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm hoặc ổn định.
Trong vòng 50 năm tới (từ 2024 đến 2074) dân số Việt Nam theo ba kịch bản về mức sinh là mức sinh thấp (1,45 con/phụ nữ), mức sinh trung bình (1,85 con/phụ nữ) và mức sinh cao (2,01 con/phụ nữ) sẽ tăng thêm tương ứng là 2,5%, 12,7%, và 17,0%, đạt lần lượt là 103,9; 114,2 và 118,5 triệu người.
Cụ thể, theo phương án trung bình, trong 5 năm đầu của thời kỳ dự báo, 2024-2029, tỷ lệ tăng dân số bình quân hằng năm của cả nước là 0,66%. Những năm sau đó, tốc độ tăng dân số hằng năm giảm dần và sẽ đạt trạng thái “dừng” vào năm 2060 với tốc độ tăng bằng 0%, từ năm 2061 trở đi, tốc độ tăng dân số ghi nhận giá trị âm.
Trong trường hợp mức sinh giảm như phương án thấp thì năm 2051, dân số Việt Nam sẽ ghi nhận tình trạng tăng trưởng âm, sớm hơn 10 năm so với phương án trung bình. Điều đáng lo ngại là mức giảm dân số diễn ra khá nhanh và ngày càng mạnh. Giai đoạn 2049-2054, bình quân mỗi năm dân số giảm 0,05%/năm, mức giảm này ở cuối thời kỳ dự báo (2069-2074) là 0,44%/năm, tương đương giảm bình quân 461 nghìn người mỗi năm.
Hiện nay, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đang nỗ lực xây dựng các chính sách, chiến lược nhằm nhằm duy trì mức sinh thay thế.
Cơ cấu giới tính bị tác động kéo dài
Kết quả dự báo cho thấy trong những năm tới tỷ số giới tính của dân số Việt Nam duy trì ở mức tương đối cân bằng giữa nam và nữ. Đến năm 2029, cả ba kịch bản thay đổi về mức sinh đều dự báo tỷ số giới tính đạt 99,8 nam/100 nữ. Từ năm 2034, theo phương án trung bình, tỷ số giới tính tăng nhẹ lên 99,9 nam/100 nữ và giữ ổn định đến đầu những năm 2040, trước khi có xu hướng giảm dần trong các giai đoạn tiếp theo. Đến năm 2074, tỷ số này sẽ còn 98,5 nam/100 nữ cho thấy trong dài hạn, tỷ lệ nữ trong dân số có thể nhỉnh hơn nam.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh của Việt Nam được ghi nhận từ những năm đầu của thế kỷ 21, khoảng từ năm 2005 đến nay. Hiện tượng này đã dẫn tới thay đổi trong cơ cấu giới tính của dân số và kéo theo nguy cơ thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn trong tương lai.
Điều tra dân số giữa kỳ năm 2024 tiếp tục ghi nhận tình trạng thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn khi số nam giới trong độ tuổi kết hôn nhiều hơn phụ nữ cùng nhóm tuổi khoảng 415,2 nghìn người.
Theo kịch bản dân số trung bình, vào năm 2029, cứ 100 nam giới trong độ tuổi kết hôn (20-39 tuổi) thì có hơn 3 người bị dư thừa do thiếu phụ nữ trong cùng nhóm tuổi, hệ lụy của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong những năm 2000. Đến năm 2034, số nam giới ở tuổi kết hôn nhiều hơn so với nữ giới cùng nhóm tuổi là 711,7 nghìn người, tương đương 4,9% dân số nam từ 20 đến 39 tuổi.
Sau năm 2034, tình trạng dư thừa nam giới hay thiếu hụt nữ giới trong độ tuổi kết hôn (20-39 tuổi) tiếp tục duy trì và có xu hướng nghiêm trọng hơn các năm trước. Đến năm 2049, Việt Nam được dự báo sẽ chứng kiến tình trạng thiếu hụt phụ nữ trong độ tuổi kết hôn cao nhất, thiếu khoảng 1,3 triệu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn (tương ứng với 8,7% nam giới trong độ tuổi kết hôn).
Sau năm 2049, tình trạng dư thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn có dấu hiệu hạ nhiệt do giả thiết tỷ số giới tính khi sinh từ sau năm 2034 dần trở lại mức cân bằng. Đến năm 2074, dân số nam đến tuổi kết hôn nhiều hơn khoảng 829 nghìn người so với dân số nữ cùng độ tuổi. Điều này cho thấy, hệ lụy của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong 30 năm đầu của thế kỷ 21 tiếp tục tác động kéo dài đến cơ cấu giới tính của dân số trong những thập kỷ tiếp theo.
Theo các chuyên gia, tình trạng thiếu hụt nữ giới trong độ tuổi kết hôn có thể làm gia tăng tính dễ tổn thương của một bộ phận phụ nữ trong xã hội, những người vốn có nhiều nguy cơ bị bạo lực, bóc lột tình dục và nạn buôn bán, trong bối cảnh nhu cầu cạnh tranh tìm kiếm bạn đời của nam giới ngày càng lớn. Những hệ lụy này đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt trong hoạch định chính sách dân số, giới và bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương.
Cũng theo dự báo, thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Việt Nam (tức cứ hai người trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) “gánh đỡ” một người ở độ tuổi phụ thuộc (dưới 15 hoặc từ 65 trở lên) sẽ khép lại vào năm 2036, nhường chỗ cho thời kỳ dân số già và siêu già, thể hiện qua sự thu hẹp các nhóm tuổi trẻ và trung niên, cùng với sự gia tăng nhanh của nhóm dân số cao tuổi./.
Phát triển các mô hình chăm sóc người cao tuổi thích ứng với già hóa dân số
Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo rà soát, sắp xếp lại các trụ sở, cơ sở vật chất dôi dư để ưu tiên phát triển các trung tâm chăm sóc ban ngày và các câu lạc bộ cho người cao tuổi...