Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã đạt kết quả ấn tượng với tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 5,2% xuống còn 1,93%, dự kiến cuối năm 2025 chỉ còn khoảng 1%. Tuy nhiên, thách thức về tính bền vững sinh kế và việc làm ổn định vẫn cần được giải quyết trong giai đoạn tới.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 triển khai trong bối cảnh đặc biệt khi nền kinh tế vừa phục hồi sau đại dịch COVID-19, thiên tai diễn biến phức tạp và yêu cầu giảm nghèo đa chiều ngày càng cao nhưng vẫn đạt được nhiều kết quả mang tính hệ thống.
Theo báo cáo về kết quả thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đến cuối năm 2024 đã giảm còn 1,93% so với mức 5,2% đầu kỳ, tương ứng mức giảm bình quân 1,03%/năm. Dự kiến đến hết năm 2025 sẽ còn khoảng 1%, vượt chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ giao (giảm từ 1-1,5%/năm). Đây là một trong những mức giảm nhanh nhất trong nhiều năm trở lại đây, phản ánh hiệu quả của chính sách hỗ trợ sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực cho người dân nhóm dễ tổn thương.
Tổng kết cho thấy các mô hình sinh kế được triển khai trên quy mô rộng, vượt xa mục tiêu đề ra. Trong 5 năm qua, cả nước đã hỗ trợ 10.587 mô hình và dự án giảm nghèo phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp, trong đó có 9.816 mô hình nông nghiệp và 771 mô hình phi nông nghiệp.
Các mô hình này thu hút 250.585 hộ dân tham gia, bao gồm 110.098 hộ nghèo, 63.619 hộ cận nghèo và 31.828 hộ thoát nghèo. Chúng không chỉ đóng góp vào tăng thu nhập mà còn tạo chuyển biến về kỹ thuật sản xuất, liên kết tiêu thụ và tư duy phát triển kinh tế hộ.
Đặc biệt, lĩnh vực nâng cao năng lực sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp đã hỗ trợ 100% người có khả năng lao động và có nhu cầu thuộc hộ nghèo tại địa bàn huyện nghèo, góp phần cải thiện an ninh lương thực, đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng và tạo sinh kế ổn định hơn.
Mặc dù có nhiều thành tựu, công tác giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 vẫn tồn tại những hạn chế đáng chú ý. Điểm yếu lớn nhất là tính bền vững của sinh kế chưa cao. Mục tiêu hỗ trợ hộ nghèo và hộ cận nghèo có ít nhất một thành viên trong độ tuổi lao động có việc làm bền vững chưa đạt được do phần lớn lao động thuộc nhóm này vẫn làm việc trong nông nghiệp, có tính thời vụ, năng suất thấp và điều kiện lao động chưa đạt chuẩn.
Điều này khiến thu nhập của hộ nghèo và hộ cận nghèo dễ bị tác động trước biến động thị trường và thời tiết. Dù nhiều mô hình sinh kế đã được triển khai nhưng tỷ lệ mô hình gắn với chuỗi giá trị, công nghệ chế biến, thị trường tiêu thụ ổn định còn hạn chế, khiến kết quả giảm nghèo ở một số địa phương chưa thật sự vững chắc.
Bước sang giai đoạn 2026-2030, các chính sách đang được thiết kế chuyển từ hỗ trợ giảm nghèo theo mô hình nhỏ lẻ sang phát triển sinh kế gắn chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, các chương trình sinh kế liên kết doanh nghiệp-hợp tác xã-hộ nghèo sẽ được đẩy mạnh nhằm bảo đảm đầu ra ổn định, tăng năng suất và thu nhập bền vững.
Những lĩnh vực có tiềm năng lớn như nông nghiệp công nghệ cao, du lịch cộng đồng, kinh tế biển, kinh tế Xanh cần được ưu tiên. Đặc biệt, các mô hình thích ứng biến đổi khí hậu phải được nhân rộng tại Đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải miền Trung và vùng núi phía Bắc.
Một trong những giải pháp then chốt khác là đa dạng hóa các mô hình việc làm. Giai đoạn mới sẽ chuyển mạnh sang các mô hình đào tạo nghề gắn thị trường lao động thực tế, ưu tiên đào tạo kỹ năng số, kỹ năng phi nông nghiệp và kỹ năng lao động xuất khẩu. Các trung tâm dịch vụ việc làm địa phương phải được nâng cấp thành nền tảng tư vấn nghề nghiệp đa kênh, giúp người nghèo tiếp cận thông tin thị trường lao động và lựa chọn công việc phù hợp./.
Đến năm 2030, phấn đấu 100% xã nghèo trên cả nước thoát khỏi tình trạng nghèo
Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước duy trì mức giảm từ 1-1,5%/năm và đến năm 2030 thì 100% số xã nghèo trên cả nước thoát khỏi tình trạng nghèo.