Tờ “The Jakarta Post” số ra mới đây đăng bài “Cải thiện an ninh năng lượng” của nhà nghiên cứu Karen Agustiawan, thuộc Trung tâm khoa học và các vấn đề quốc tế, Đại học Harvard (Mỹ), trong đó nhấn mạnh có nhiều lý do để Indonesia cần cải thiện chính sách an ninh năng lượng của mình.
Bề ngoài, Indonesia không phải lo lắng với vấn đề an ninh năng lượng vì quốc gia này may mắn sở hữu nguồn khí tự nhiên và than đá dồi dào, đủ để trở thành nước xuất khẩu năng lượng ròng.
Tuy nhiên, an ninh năng lượng của Indonesia vẫn có thể bị tổn thương nếu nguồn cung năng lượng toàn cầu gián đoạn hay giá năng lượng trên thế giới biến động đột ngột do sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các quốc gia để sở hữu và tiếp cận các nguồn năng lượng chiến lược.
Trước hết, Indonesia hiện đang phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu, yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến an ninh năng lượng. Với mức tiêu thụ khoảng 1,36 triệu thùng dầu/ngày (bpd), cao hơn hẳn mức sản lượng khai thác hiện nay khoảng 826 nghìn bpd, trong đó đã dành tới 30-40% cho xuất khẩu, Indonesia đang phải vật lộn để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước. Ngoài ra, năng lực lọc dầu của Indonesia mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu trong nước.
Năm 2011, Indonesia đã nhập khẩu hơn 400 nghìn thùng dầu thành phẩm mỗi ngày. Mặc dù là nhà xuất khẩu khí đốt tự nhiên và than đá hàng đầu thế giới, nhưng sự phụ thuộc vào dầu nhập khẩu khiến Indonesia phải đối mặt với rủi ro về giá cả và nguồn cung, trong bối cảnh các cú sốc địa chính trị đang chực chờ bùng nổ tại Trung Ðông.
Ngoài ra, Indonesia có thể bị tổn thương do nguồn năng lượng tiêu thụ chủ yếu là hydrocarbon, chiếm tới 71% năng lượng tiêu thụ, trong đó riêng dầu mỏ chiếm hơn 40%. Bởi vậy đa dạng hóa các nguồn năng lượng là rất cần thiết nhằm hỗ trợ an ninh năng lượng.
Để giải quyết hiệu quả vấn đề an ninh năng lượng, tác giả cho rằng trước hết Indonesia phải xem xét lại chính sách năng lượng hiện tại. Thứ nhất là chính sách trợ giá năng lượng, được áp dụng từ những năm 1960 đến nay.
Chính sách này đã khiến giá năng lượng, vốn được xác định dựa trên quan hệ cung-cầu, xa rời thực tế, khiến người tiêu dùng không ý thức được chi phí thực năng lượng mà họ sử dụng, dẫn đến tiêu thụ quá nhiều và lãng phí.
Hơn nữa, mức trợ cấp nhiên liệu 20% như hiện nay là đáng kinh ngạc và cực kỳ bất hợp lý, làm hao mòn ngân sách nhà nước. Khoản ngân sách này sẽ hiệu qủa hơn nếu được dành đầu tư cho phát triển để cải thiện đời sông nhân dân. Chương trình Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) năm 2015 của Indonesia không đạt được tiến độ mong muốn một phần là thiếu nguồn lực tài chính. Tỷ lệ dân số tiếp cận nước sạch, vệ sinh môi trường đã tăng không đáng kể và vẫn còn thấp hơn nhiều so với mục tiêu.
Bên cạnh đó, xuất phát từ khiếm khuyết chính sách, ngành năng lượng Indonesia đã thiếu được đầu tư đúng mức, khiến cơ sở hạ tầng năng lượng lạc hậu cùng với thời gian. Thực trạng này đã kìm hãm Indonesia ở đáy của chuỗi giá trị, không thể đáp ứng được nguồn cung năng lượng ổn định trong nước.
Tác giả cũng cho cho rằng sự phân quyền cho chính quyền địa phương được tiến hành từ năm 2001 đã dẫn đến tình trạng thiếu phối hợp giữa trung ương và địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chính sách năng lượng. Mặc dù chính quyền địa phương có quyền đầu tư vào năng lượng tái tạo nhưng vì thiếu các định hướng chính sách rõ ràng từ chính quyền trung ương mà kế hoạch phát triển năng lượng quốc gia bị chệch hướng.
Sau khi chỉ ra các khiếm khuyết trong chính sách năng lượng, tác giả đưa ra một số giải pháp khắc phục và cải thiện an ninh năng lượng cho Indonesia
Thứ nhất, Indonesia cần sử dụng nhiều hơn khí tự nhiên. Thực tế là sản lượng khí đốt tự nhiên của nước này đã tăng hơn 1/3 kể từ năm 2005, và đây là cơ sở để đẩy mạnh khai thác sử dụng các loại khí tự nhiên khác như khí than (CBM), khí hóa lỏng (LPG).
Thứ hai, Indonesia có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng tái tạo. Chẳng hạn, Indonesia có thể tối đa hóa sử dụng các nguồn tài nguyên địa nhiệt nhờ vị trí địa lý nằm trong vành đai lửa Thái Bình Dương.
Theo ước tính của Cơ quan Địa chất Quốc gia Indonesia, hiện địa nhiệt mới chỉ đóng góp khoảng 1.200 MW so với tiềm năng 27.000 MW. Ngoài địa nhiệt, Indonesia có thể sử dụng các nguồn năng lượng thay thế khác thông qua sản xuất ethanol hay điện gió.
Bên cạnh sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, Chính phủ Indonesia cần hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, ứng dụng các công nghệ mới, tiên tiến để tăng cường an ninh năng lượng.
Tác giả kết luận Indonesia có thể cải thiện và đảm bảo an ninh năng lượng nếu chính phủ nước này có đủ quyết tâm./.
Bề ngoài, Indonesia không phải lo lắng với vấn đề an ninh năng lượng vì quốc gia này may mắn sở hữu nguồn khí tự nhiên và than đá dồi dào, đủ để trở thành nước xuất khẩu năng lượng ròng.
Tuy nhiên, an ninh năng lượng của Indonesia vẫn có thể bị tổn thương nếu nguồn cung năng lượng toàn cầu gián đoạn hay giá năng lượng trên thế giới biến động đột ngột do sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các quốc gia để sở hữu và tiếp cận các nguồn năng lượng chiến lược.
Trước hết, Indonesia hiện đang phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu, yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến an ninh năng lượng. Với mức tiêu thụ khoảng 1,36 triệu thùng dầu/ngày (bpd), cao hơn hẳn mức sản lượng khai thác hiện nay khoảng 826 nghìn bpd, trong đó đã dành tới 30-40% cho xuất khẩu, Indonesia đang phải vật lộn để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước. Ngoài ra, năng lực lọc dầu của Indonesia mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu trong nước.
Năm 2011, Indonesia đã nhập khẩu hơn 400 nghìn thùng dầu thành phẩm mỗi ngày. Mặc dù là nhà xuất khẩu khí đốt tự nhiên và than đá hàng đầu thế giới, nhưng sự phụ thuộc vào dầu nhập khẩu khiến Indonesia phải đối mặt với rủi ro về giá cả và nguồn cung, trong bối cảnh các cú sốc địa chính trị đang chực chờ bùng nổ tại Trung Ðông.
Ngoài ra, Indonesia có thể bị tổn thương do nguồn năng lượng tiêu thụ chủ yếu là hydrocarbon, chiếm tới 71% năng lượng tiêu thụ, trong đó riêng dầu mỏ chiếm hơn 40%. Bởi vậy đa dạng hóa các nguồn năng lượng là rất cần thiết nhằm hỗ trợ an ninh năng lượng.
Để giải quyết hiệu quả vấn đề an ninh năng lượng, tác giả cho rằng trước hết Indonesia phải xem xét lại chính sách năng lượng hiện tại. Thứ nhất là chính sách trợ giá năng lượng, được áp dụng từ những năm 1960 đến nay.
Chính sách này đã khiến giá năng lượng, vốn được xác định dựa trên quan hệ cung-cầu, xa rời thực tế, khiến người tiêu dùng không ý thức được chi phí thực năng lượng mà họ sử dụng, dẫn đến tiêu thụ quá nhiều và lãng phí.
Hơn nữa, mức trợ cấp nhiên liệu 20% như hiện nay là đáng kinh ngạc và cực kỳ bất hợp lý, làm hao mòn ngân sách nhà nước. Khoản ngân sách này sẽ hiệu qủa hơn nếu được dành đầu tư cho phát triển để cải thiện đời sông nhân dân. Chương trình Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) năm 2015 của Indonesia không đạt được tiến độ mong muốn một phần là thiếu nguồn lực tài chính. Tỷ lệ dân số tiếp cận nước sạch, vệ sinh môi trường đã tăng không đáng kể và vẫn còn thấp hơn nhiều so với mục tiêu.
Bên cạnh đó, xuất phát từ khiếm khuyết chính sách, ngành năng lượng Indonesia đã thiếu được đầu tư đúng mức, khiến cơ sở hạ tầng năng lượng lạc hậu cùng với thời gian. Thực trạng này đã kìm hãm Indonesia ở đáy của chuỗi giá trị, không thể đáp ứng được nguồn cung năng lượng ổn định trong nước.
Tác giả cũng cho cho rằng sự phân quyền cho chính quyền địa phương được tiến hành từ năm 2001 đã dẫn đến tình trạng thiếu phối hợp giữa trung ương và địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chính sách năng lượng. Mặc dù chính quyền địa phương có quyền đầu tư vào năng lượng tái tạo nhưng vì thiếu các định hướng chính sách rõ ràng từ chính quyền trung ương mà kế hoạch phát triển năng lượng quốc gia bị chệch hướng.
Sau khi chỉ ra các khiếm khuyết trong chính sách năng lượng, tác giả đưa ra một số giải pháp khắc phục và cải thiện an ninh năng lượng cho Indonesia
Thứ nhất, Indonesia cần sử dụng nhiều hơn khí tự nhiên. Thực tế là sản lượng khí đốt tự nhiên của nước này đã tăng hơn 1/3 kể từ năm 2005, và đây là cơ sở để đẩy mạnh khai thác sử dụng các loại khí tự nhiên khác như khí than (CBM), khí hóa lỏng (LPG).
Thứ hai, Indonesia có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng tái tạo. Chẳng hạn, Indonesia có thể tối đa hóa sử dụng các nguồn tài nguyên địa nhiệt nhờ vị trí địa lý nằm trong vành đai lửa Thái Bình Dương.
Theo ước tính của Cơ quan Địa chất Quốc gia Indonesia, hiện địa nhiệt mới chỉ đóng góp khoảng 1.200 MW so với tiềm năng 27.000 MW. Ngoài địa nhiệt, Indonesia có thể sử dụng các nguồn năng lượng thay thế khác thông qua sản xuất ethanol hay điện gió.
Bên cạnh sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, Chính phủ Indonesia cần hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, ứng dụng các công nghệ mới, tiên tiến để tăng cường an ninh năng lượng.
Tác giả kết luận Indonesia có thể cải thiện và đảm bảo an ninh năng lượng nếu chính phủ nước này có đủ quyết tâm./.
Ngọc Hiệp (Vietnam+)