Bốn "vành đai" phòng thủ trước đại dịch COVID-19

Việc cùng triển khai bốn vòng phòng thủ gồm vaccine, thuốc kháng virus, các biện pháp y tế công cộng và hợp tác toàn cầu, mới có thể giúp chúng ta loại bỏ đại dịch COVID-19.
Bốn "vành đai" phòng thủ trước đại dịch COVID-19 ảnh 1Bảng khuyến cáo người dân đeo khẩu trang phòng lây nhiễm COVID-19 tại Sydney (Australia). (Ảnh: THX/TTXVN)

Theo trang mạng project-syndicate.org, ngay cả khi có vaccine hiệu quả, virus corona và các biến thể mới sẽ tiếp tục khiến chúng ta phải hứng chịu những đợt bùng phát dịch bệnh tiếp theo.

Cuối cùng, việc trở lại cuộc sống bình thường sẽ đòi hỏi một chiến lược đa tầng bao gồm vaccine, thuốc dự phòng, các biện pháp y tế công cộng và hợp tác toàn cầu sâu rộng hơn.

Mỹ hiện bước vào đợt lây nhiễm COVID-19 lần thứ 5. Trong mỗi đợt bùng phát, Mỹ đều phải trả giá đắt vì hành động quá ít, trong khi nước này lẽ ra có thể làm tốt hơn thế.

Trong đợt bùng phát đầu tiên, các biện pháp phong tỏa và các hạn chế khác chỉ được áp dụng rải rác. Tiếp đó là các phương pháp điều trị chưa được thử nghiệm và không chứng minh được tính hiệu quả.

Với việc triển khai tiêm chủng vaccine, các ca lây nhiễm mới đã giảm đáng kể. Thế nhưng, giờ đây, biến thể Delta đã và đang khiến số ca lây nhiễm gia tăng trở lại ở Mỹ trong số những người chưa tiêm chủng.

Ở mỗi giai đoạn, virus SARS-CoV-2 gây ra đại dịch COVID-19 đã bị đánh giá thấp. Thế nhưng, từ những gì chúng ta biết về khả năng thích ứng và phát triển của virus thông qua các đột biến ngẫu nhiên, chỉ có một lựa chọn khả thi để kiểm soát lâu dài đối với dịch bệnh này, đó là một chiến lược kết hợp các nguồn vaccine đang phát triển mạnh và các loại thuốc kháng virus đi kèm với các biện pháp y tế công cộng mạnh mẽ và sự hợp tác toàn cầu sâu rộng hơn.

Việc tiêm vaccine cung cấp vòng bảo vệ đầu tiên chống lại COVID-19. Thế hệ vaccine đầu tiên ở Mỹ đã cho thấy hiệu quả cao. Thế hệ thứ hai, thứ ba và các thế hệ tiếp theo sẽ còn tốt hơn.

Tuy nhiên, ngay cả khi có các mũi tiêm nhắc lại và các thế hệ vaccine tiếp theo được điều chỉnh phù hợp chống được các biến thể mới, chỉ riêng việc tiêm vaccine cũng khó có khả năng chấm dứt đại dịch. Lý do là vaccine sẽ không có hiệu quả đối với tất cả mọi người.

[Thế giới ghi nhận hơn 201 triệu ca mắc COVID, gần 4,3 triệu ca tử vong]

Trong trường hợp tốt nhất, vaccine vẫn thất bại khoảng 5% trong việc chống lại loại virus xuất hiện ban đầu. Và biến thể Delta đã chứng tỏ sự "lão luyện" hơn các chủng trước đó trong việc phá vỡ các vòng bảo vệ do vaccine tạo ra. Ngay cả khi toàn bộ dân số Mỹ đã được tiêm phòng, khoảng 17,5 triệu người Mỹ vẫn có nguy cơ bị nhiễm bệnh nếu bị lây nhiễm virus.

Hơn nữa, một lượng đáng kể trong số những người có các bệnh nền làm giảm hiệu quả của vaccine. Những người này bao gồm những người được cấy ghép nội tạng, những người dùng thuốc ức chế hệ miễn dịch, bệnh nhân ung thư và một bộ phận người cao tuổi.

Và giống như sự bảo vệ mà vaccine cúm thông thường tạo ra, những bằng chứng ban đầu cho thấy khả năng miễn dịch do vaccine chống COVID-19 tạo ra có thể mất dần theo thời gian. Do đó, thuốc kháng virus và thuốc dự phòng sẽ là giải pháp cần thiết để có thể lấp những khoảng trống nói trên và cung cấp vòng bảo vệ thứ hai.

Chính phủ Mỹ gần đây đã cam kết khoản đầu tư 3,2 tỷ USD để phát triển các liệu pháp kháng virus COVID-19. Mặc dù hầu hết mọi người tập trung vào việc sử dụng các loại thuốc này như một phương pháp điều trị, nhưng tiềm năng thực sự của chúng nằm ở việc kiểm soát đại dịch bởi vì việc dùng thuốc dự phòng có thể giúp những người đã tiếp xúc với virus không bị bệnh hoặc bị lây nhiễm.

Đúng vậy, thế hệ hiện tại của những loại thuốc này không thể được sử dụng rộng rãi, do chi phí sản xuất cao và cần phải truyền tĩnh mạch cho người mắc bệnh. Tuy nhiên, giới chuyên gia Mỹ đã kiểm tra được tính khả thi.

Lý tưởng nhất là thế hệ thuốc kháng virus tiếp theo sẽ ở dạng viên nén, mang lại tiềm năng rất lớn cho việc sử dụng chúng ở những nơi có nguy cơ cao như trung tâm chăm sóc sức khỏe lâu dài, nơi có nhiều người bị ức chế miễn dịch vốn không thể chỉ dựa vào sự bảo vệ của vaccine.

Cách tiếp cận tương tự cũng áp dụng cho các trường học, doanh nghiệp, các đội thể thao chuyên nghiệp và thậm chí cả các tàu trên biển. Nếu một người có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19, thì mọi người xung quanh có thể uống thuốc này để giúp ngăn ngừa bị lây nhiễm.

Vòng bảo vệ tiếp theo sẽ đến từ các biện pháp y tế công cộng để ngăn chặn sự lây lan của virus. Các quốc gia như Australia, Trung Quốc, New Zealand, Singapore và hòn đảo tự trị Đài Loan đã tiến hành hiệu quả công tác xét nghiệm trên quy mô lớn, truy tìm toàn bộ những người tiếp xúc với ca nhiễm, cách ly bắt buộc, kiểm soát chặt chẽ biên giới và cách ly đối với những người mới nhập cảnh.

Những chiến lược này là phương pháp bảo vệ quan trọng khi đối mặt với hầu hết mọi bệnh truyền nhiễm trong lịch sử gần đây. Tuy nhiên, ở Mỹ và một số quốc gia khác trên thế giới, việc kiểm tra và truy vết lại bị đình trệ (hoặc không bao giờ được thực hiện ngay từ đầu).

May mắn thay, các loại thuốc dự phòng kháng virus mới có thể giúp bù đắp phần nào những thiếu sót này. Thay vì áp dụng chiến lược “kiểm tra, truy vết và cách ly”, câu thần chú có thể trở thành “kiểm tra, truy vết và uống thuốc."

Đó là một sự thay thế hấp dẫn hơn nhiều. Những loại thuốc này cũng có thể giúp mở ra cơ hội mới cho du lịch, loại bỏ sự cần thiết phải cách ly dài ngày.

Ba vòng bảo vệ đầu tiên này sẽ tạo thành một lớp bảo vệ tuyệt vời. Nhưng sẽ là không đủ nếu chúng không được triển khai ở mọi nơi. Để cung cấp vòng bảo vệ cuối cùng, cộng đồng quốc tế cần hợp tác với nhau để cải thiện việc giám sát dịch bệnh và cung cấp khả năng tiếp cận toàn cầu đối với hoạt động xét nghiệm, công tác điều trị và tiêm chủng vaccine.

Ở đây, quyền truy cập chương trình Tăng tốc tiếp cận các công cụ ứng phó với COVID-19 (ACT) và trụ cột của chương trình này là cơ chế tiếp cận toàn cầu đối với vaccine COVID-19 (COVAX) là một bước đi quan trọng đầu tiên.

Tuy nhiên, sức mạnh của nền tảng này đang bị suy giảm bởi tư lợi và chủ nghĩa dân tộc vaccine. Mặc dù vậy, vẫn có hy vọng cho tương lai khi nhiều quốc gia có thu nhập cao đang dư thừa vaccine. Cũng có những nỗ lực đang được tiến hành để tăng cường sản xuất vaccine trong nước ở những khu vực chưa được cung cấp vaccine theo cơ chế toàn cầu nói trên.

Bên cạnh những nỗ lực này, cộng đồng quốc tế cần đầu tư vào công tác giám sát dịch bệnh toàn cầu để phát hiện các đợt bùng phát mới, đặc biệt là các đợt bùng phát do các biến thể có khả năng lây nhiễm cao gây ra vốn có thể nhanh chóng lây lan và phát triển mạnh mẽ.

Điều này đòi hỏi phải tăng cường giám sát, nắm được giải trình tự gia tăng của virus trên tất cả cộng đồng và một cách thức chia sẻ dữ liệu thời gian thực trên quy mô lớn.

Với các cơ chế phù hợp ở tuyến đầu chống dịch như trên, một cộng đồng toàn cầu gồm các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và nhà sản xuất dược phẩm sẽ phải xác định cách thức các loại vaccine và các phương pháp điều trị có khả năng chống lại từng loại biến thể mới và cách thức để giảm thiểu nguy cơ lây lan và tái bùng phát của chúng.

Sau 18 tháng xảy ra đại dịch, chúng ta đã có những gì chúng ta cần để chấm dứt dịch bệnh này. Giờ đây, chúng ta cần phải áp dụng kiến thức và công cụ của mình. Không có cách tiếp cận đơn lẻ nào là đủ.

Tuy nhiên, việc cùng triển khai bốn vòng phòng thủ gồm vaccine, thuốc kháng virus, các biện pháp y tế công cộng và hợp tác toàn cầu, mới có thể giúp chúng ta loại bỏ đại dịch COVID-19 đe dọa đến tính mạng con người để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục