Chính sách hỗ trợ tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh

Vấn đề đặt ra hiện này là làm thế nào để thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững.
Quang cảnh phiên hội thảo Chuyên đề 2. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

“Thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững” là nội dung được thảo luận tại hội thảo chuyên đề diễn ra trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế-Xã hội Việt năm 2022 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ban Kinh tế Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức sáng 18/9.

Thị trường lao động sau đại dịch COVID-19 tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Theo các đại biểu, vấn đề đặt ra hiện này là làm thế nào để thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; trong đó, nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ, với 17 nhóm nhiệm vụ liên quan đến ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn triển khai chương trình. 

Tuy nhiên, các nhóm nhiệm vụ khác nhau có tiến độ khác nhau, một số nhóm triển khai được ngay song có nhóm cần khá nhiều thời gian để làm công tác chuẩn bị, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Một trong số đó là nhóm chính sách đầu tư công, liên quan gói 176.000 tỷ đồng mà nguyên nhân kéo dài triển khai, thực hiện do bối cảnh khách quan về tình hình dịch bệnh.

[Diễn đàn Kinh tế-Xã hội: Tập trung xác định giá thị trường của đất đai]

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết thêm, gói nhóm nhiệm vụ này chia làm 2 khía cạnh. Về vốn, Nghị quyết 43/2022/QH15 đã tạo cơ chế hết sức linh hoạt.

Về dự án, đây là nhiệm vụ khá khó vì liên quan trình tự thủ tục. Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, Chính phủ đã trình 94 dự án, vốn đạt hơn 140.000 tỷ đồng. Hơn 20.000 tỷ đồng đối với nhiệm vụ dự án còn lại, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện thủ tục và triển khai ngay sau khi hoàn thiện.

Để nâng cao năng lực cạnh tranh và sức chống chịu của doanh nghiệp trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thời gian tới, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết, sẽ tiếp tục sửa đổi chính sách, thủ tục để đẩy nhanh gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà nhận định, số liệu về giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% hiện còn khiêm tốn, chưa được như kỳ vọng do một số nhóm khó khăn. Theo đó, đối tượng hỗ trợ có trường hợp khách hàng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực. Nếu chỉ một trong số đó thuộc diện được hỗ trợ, khách hàng có được hưởng gói này không. Hay như tiêu chí đánh giá, thẩm định khách hàng có khả năng phục hồi giữ các ngân hàng cho vay cũng có sự khác biệt.

Về tâm lý, hiện có sự e ngại của ngân hàng thương mại do gói hỗ trợ lãi suất trước đây cũng có khó khăn nhất định về giải ngân và kiểm toán. Khách hàng cũng e ngại hoạt động thanh tra, kiểm toán sau này. Bên cạnh đó, dư nợ hỗ trợ 800.000 tỷ đồng nhưng thực tế đã triển khai 4.400 tỷ đồng nên có khoảng cách nhất định giữa khả năng được hỗ trợ cũng như thực tế, do phụ thuộc vào mong muốn của khách hàng có muốn được hỗ trợ hay không.

Chủ tịch Deloitte Việt Nam Hà Thu Thanh thông tin, các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn. Bởi hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nghiệp vừa và nhỏ nên cách tiếp cận vốn duy nhất là vay vốn qua các ngân hàng thương mại. Trong khi đó, tài sản đảm bảo giá trị thấp, số vốn vay được thấp nên hạn chế việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh.

Để tháo gỡ các nhóm khó khăn này, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai tổ công tác liên ngành khảo sát thực tế địa phương để giải đáp thắc mắc; tiếp tục tổ chức hội nghị kết nối doanh nghiệp - ngân hàng. Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành để chỉnh sửa chính sách, thủ tục cần tháo gỡ khó khăn để khách hàng vay được vốn và gói hỗ trợ này được triển khai nhanh hơn.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, sau 3 tháng triển khai Nghị định 31 về hỗ trợ 2% lãi suất từ ngân sách nhà nước (với 40.000 tỷ đồng trong năm 2022 và 2023), doanh số cho vay hỗ trợ lãi suất mới đạt gần 4.100 tỷ đồng với gần 550 khách hàng. Số tiền lãi đã hỗ trợ đạt chỉ 1 tỷ đồng, dư nợ được hỗ trợ lãi suất là 3.966 tỷ đồng.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và đại biểu dự phiên thảo luận. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Tại phiên trao đổi và thảo luận bàn tròn, Giáo sư, Tiến sỹ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã đặt câu hỏi với Chuyên gia Kinh tế Cao cấp của Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam Jonathan Pincus.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng nên chăng khi đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 43 của Quốc hội, cần phải đánh giá trong tổng thể các chính sách mà Việt Nam đã ban hành và thực hiện từ năm 2020 và cả những chính sách được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 31/12/2021 nhưng thực hiện cho năm 2022.

Ví dụ, việc Việt Nam quyết định sử dụng kết dư của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp ngay một lúc chi tới 38.000 tỷ đồng bằng tiền mặt, sau đó, vẫn tiếp tục kéo dài chính sách này chi thêm hơn 1.500 tỷ đồng, cộng với 6.600 tỷ đồng hỗ trợ tiền thuê nhà (theo Nghị quyết số 43) là vào khoảng 2 tỷ USD, chưa kể phần chi khá lớn của các địa phương nhằm trợ cấp trực tiếp cho người dân, người lao động.

“Những chính sách đó có tính là chi trực tiếp cho người dân hay không? Chúng ta đánh giá chỉ có vấn đề giảm thuế thì không hiệu quả nếu chưa chi trực tiếp cho người dân. Vậy kinh nghiệm quốc tế chi trực tiếp cho người dân như thế nào? Nguồn từ đâu và tỷ trọng là bao nhiêu? Chưa kể trong giai đoạn 2019-2020, hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân của Việt Nam bằng tiền mặt là rất lớn.

Như vậy để thấy rằng phương pháp tiếp cận đánh giá Nghị quyết 43 của Quốc hội, Nghị quyết số 11 của Chính phủ trong tổng thể các chính sách khi thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Nghị quyết 42 của Quốc hội trong suốt năm 2020-2021... Đây là vấn đề thuộc liên quan đến nhận thức và kinh nghiệm quốc tế vì mỗi nước có hoàn cảnh rất khác nhau,” Chủ tịch Quốc hội nói.

Nêu thực tế các nước có tỷ lệ lạm phát cao trong khi Việt Nam lại duy trì được ở mức thấp, Chủ tịch Quốc hội chia sẻ, Việt Nam đã nghiên cứu rất kỹ và thấy rằng, vì ngân sách Việt Nam tài khóa không có nhiều nên thay vì chi tiền trực tiếp cho người dân thì giảm thuế giá trị gia tăng 2% sẽ giúp bất cứ người dân nào cũng được hưởng, với số tiền ít hơn nhưng mua được nhiều hàng hóa hơn và thực thi rất nhanh.

Chính sách này đã giảm thu ngân sách nhà nước mấy chục nghìn tỷ đồng. Vậy đây có phải là chính sách chi tiền trực tiếp không? Chưa kể chính sách này còn có tác động kép, góp phần giảm lạm phát. Đó là lý do giúp lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua giữ được ở mức thấp. Do đó, theo Chủ tịch Quốc hội phải tiếp tục nghiên cứu tiếp vấn đề này.

Liên quan đến vấn đề lao động, việc làm, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu thực tế tại nhiều nước sau đại dịch COVID-19: số người mất việc làm thì thấp nhưng người tham gia vào thị trường lao động cũng thấp.

Tương tự như ở Việt Nam, số người nói là thất nghiệp không nhiều nhưng một số ngành lại thiếu lao động cục bộ. “Phải chăng có một bộ phận người lao động đang khu trú ở đâu đó sau đại dịch COVID -19? Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng cần nghiên cứu vấn đề này. Dường như có một bộ phận lao động chưa sẵn sàng quay trở lại làm việc. Trên thế giới, xu hướng này ra sao?”

Chủ tịch Quốc hội đặt câu hỏi và cho rằng, có những vấn đề sau diễn đàn có thể kết luận được, nhưng cũng có những vấn đề chưa thể kết luận được mà gợi mở để tiếp tục nghiên cứu cũng chính là kết quả của diễn đàn.

Trả lời câu hỏi của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, ông Jonathan Picus, Chuyên gia Kinh tế Cao cấp của Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam cho biết, thực tiễn từ châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy, ảnh hưởng của chính sách tài khóa là nhỏ, trong khi những khoản chi tiêu trong gia đình mới đóng góp lớn vào khôi phục ngân sách Nhà nước.

Tiến sỹ Lâm Văn Đoan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội tham luận với chủ đề "Mở rộng diện bao phủ an sinh xã hội, thúc đẩy việc làm bền vững trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội". (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Từ góc độ cầu ở khu vực này, các khoản hỗ trợ người lao động từ ngân sách địa phương và ngân sách của doanh nghiệp. Với khoản hỗ trợ này, người lao động vẫn có thể đóng tiền nhà và trang trải các khoản chi phí sinh hoạt hàng ngày khác.

Chính sách giảm thuế thu nhập thường áp dụng trong các cuộc khủng hoảng không quá nghiêm trọng. Còn ích lợi của việc hỗ trợ bằng tiền mặt là giúp điều hòa nguồn thu ngân sách. Bởi vậy, Mỹ và châu Âu rất quan tâm tới chính sách này.

Về nguyên nhân người lao động không quay trở lại làm việc sau đại dịch, ông Jonathan Pincus cho rằng có thể là do sức khỏe của họ bị suy giảm sau đại dịch, vì thống kê cho thấy 10% người bị mắc COVID-19 có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe hậu COVID-19, nhất là với người lớn tuổi và cần nhiều thời gian để hồi phục.

Ngoài ra, tại một số quốc gia như Mỹ, Anh, tỷ lệ người nhập cư giảm trong giai đoạn đại dịch. Đây là một nhóm người rút khỏi thị trường lao động. Còn ở trong nước (ở Mỹ, châu Âu), còn có những nguyên do nội tại khác.

Theo ông Jonathan Pincus, việc hỗ trợ bằng tiền mặt không phải là lý do chính khiến cho tỷ lệ này suy giảm bởi sau khi đại dịch kết thúc người lao động không còn nhận khoản hỗ trợ nữa thì sẽ phải đi làm lại. Tuy nhiên cũng có nhiều người lao động cảm nhận chưa thể quay trở lại thị trường lao động.

Cùng với đó còn có sự thiếu linh hoạt trong một số thị trường lao động đặc thù, đó là người lao động không thể “nhảy việc” một cách linh hoạt nhanh chóng được hay chuyển địa điểm sinh sống từ nơi này sang nơi khác hoặc do chi phí sinh hoạt…

Hiện nay chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi công nghệ đột phá làm giảm nhu cầu cần lao động con người. Có một số ngành mới thiếu lao động giỏi ở một số kỹ năng nhất định.

Đây cũng là vấn đề ở thị trường châu Mỹ, châu Âu, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao thiếu nhân lực lành nghề, kỹ thuật, công nghệ.

Còn những ngành truyền thống như bán lẻ, ngân hàng, sản xuất thì tự động hóa đang thay thế dần các vị trí công việc của con người, rồi trí tuệ nhân tạo, robot, công nghệ mới đã thay thế người lao động.

Ông Jonathan Pincus cho rằng, có rất nhiều nguyên do khiến cho tỷ lệ tham gia lao động giảm, đó cũng thể do xu thế toàn cầu hay nguyên do đặc thù của từng nền kinh tế...

Trao đổi thêm về phần trả lời của ông Jonathan Pincus, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết: “Nếu Chính phủ có nhiều tiền mặt để chi thì rất dễ dàng. Nhưng vấn đề là các nước có tài khóa khó khăn như Việt Nam nhưng vẫn tìm cách chi bằng tiền mặt và chi khá nhiều.

Ở đây, vấn đề đánh giá tỷ trọng, phương pháp hỗ trợ và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ phải chăng không chỉ đơn thuần theo Nghị quyết số 43 của Quốc hội và Nghị quyết số 11 của Chính phủ mà phải đặt trong tổng thể các gói giải pháp, chính sách đã áp dụng từ đầu năm 2019 đến nay. Tại sao tỷ lệ khách du lịch nội địa và bán lẻ vẫn tăng?

Vì cầu của Việt Nam vẫn tốt, không có chuyện suy giảm cầu ở Việt Nam. Do đó nên chăng phải có đánh giá kỹ lưỡng hơn, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế áp dụng ở Việt Nam như thế nào. Đây là vấn đề về chính sách,” Chủ tịch Quốc hội nói.

Bà Hà Thu Thanh, Chủ tịch Deloitte Việt Nam tham luận với chủ đề "Nâng cao năng lực cạnh tranh và sức chống chịu của doanh nghiệp trong bối cảnh mới". (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết thêm, theo chính sách mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tham mưu, thực tế tổng các khoản chi hỗ trợ bằng tiền mặt của nước ta cho người loa động và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 lên tới khoảng 86.000 tỷ đồng, hỗ trợ trực tiếp cho hơn 56 triệu lượt người lao động.

Đây là mức chi không phải là ít so với các nước trên thế giới. Ngoài các khoản chi hỗ trợ trực tiếp, Việt Nam còn có các chính sách hỗ trợ gián tiếp thông qua miễn, giảm thuế.

Về nguyên nhân thiếu nguồn nhân lực sau dịch COVID-19, Thứ trưởng Lê Văn Thanh nêu quan điểm, hiện còn một lượng lớn lao động trở về khu vực nông thôn nhưng chưa kịp quay lại nơi làm việc; hoặc không muốn quay lại nơi làm việc vì đã tìm được việc làm phù hợp ở quê nhà. Cùng với đó, sau khi nghỉ việc, một bộ phận người lao động muốn chuyển sang ngành nghề khác cho thu nhập cao hơn…

Để giải quyết tình trạng thiếu hụt người lao động, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang có chính sách đẩy mạnh đào tạo người lao động; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người lao động tìm việc thông qua mạng Internet.

Trao đổi với Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh về nguyên nhân khiến người lao động chưa quay trở lại làm việc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ lưu ý Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cần phải có cơ sở dữ liệu để đánh giá thực trạng và xu hướng để có chính sách tới đây huy động người lao động trở lại làm việc, vì bộ phận lao động này đã từng tham gia thị trường, có kinh nghiệm, có kỹ năng, được đào tạo rồi mà không thu hút họ quay trở lại được thị trường là không nên./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục