Thủ tướng NguyễnTấn Dũng, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộcGiàng Seo Phử đồng chủ trì hội nghị.
Chính sách góp phần quan trọng cải thiện đời sống của đồng bào
Vùng dân tộc và miền núi chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên của đất nước, làđịa bàn sinh sống của 54 dân tộc Việt Nam, trong đó có 53 dân tộc thiểu số vớigần 12,3 triệu người, chiếm 14,27% dân số cả nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách cho vùng dântộc và miền núi, hình thành hệ thống chính sách ngày càng toàn diện và đồng bộvới nguồn lực đầu tư ngày một nhiều hơn, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triểnkinh tế-xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinhthần cho đồng bào.
Theo Ủy ban Dân tộc, trong giai đoạn 2006-2012, các chính sách đối với địabàn vùng dân tộc và miền núi được thể chế hóa qua gần 160 văn bản quy phạm phápluật gồm 14 Nghị định của Chính phủ; 40 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 27văn bản phê duyệt các đề án… Ngoài ra, trên cơ sở tình hình thực tế, các địaphương đã chủ động xây dựng và ban hành nhiều chính sách thực hiện trên địa bànvùng dân tộc và miền núi.
Tiếp theo Chương trình 135 giai đoạn 1, chính sách trong giai đoạn2006-2012 đã tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc nhất của vùngdân tộc và miền núi, tạo đà cho khu vực này phát triển, như: đầu tư cơ sở hạtầng các xã thôn bản đặc biệt khó khăn; Chương trình giảm nghèo nhanh, bền vữngcủa 62 huyện nghèo; chính sách hỗ trợ hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nướcsinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; chính sáchcho vay vốn phát triển sản xuất; chính sách đầu tư hỗ trợ định canh định cư.
Về kinh phí thực hiện chính sách, mặc dù trong điều kiện suy thoái kinhtế, ngân sách nhà nước có nhiều khó khăn, song trong giai đoạn 2006-2012 ngânsách nhà nước đã bố trí cho các chương trình, chính sách vùng dân tộc và miềnnúi với tổng kinh phí trên 54.770 tỷ đồng.
Với đường lối đúng đắn của Đảng, chính sách của Nhà nước, sự chỉ đạo quyếtliệt của Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương, các cấp ở địa phương và với sựnỗ lực vươn lên của đồng bào, kết quả đã làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thônvùng dân tộc và miền núi. Sản xuất một số vùng đã có bước phát triển theo hướngsản xuất hàng hóa, tỷ lệ hộ nghèo giảm, cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển.
Công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số có nhiều tiến bộ, 99,5% số xã cótrường tiểu học, 93,2% số xã có trường trung học cơ sở, 12,9% số xã có trườngtrung học phổ thông. Mạng lưới y tế phát triển nhanh, hệ thống bệnh viện tỉnh,huyện và trạm y tế xã được quan tâm đầu tư, 99,39% xã có trạm y tế, 77,8% xãchuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2011, có 94,2% số thôn có cán bộ y tế.
Giá trị văn hóa dân tộc tiếp tục được quan tâm bảo tồn và phát huy. Hạtầng kỹ thuật phát thanh truyền hình, thông tin liên lạc được quan tâm đầu tư đãphủ sóng phát thanh trên 90% và sóng truyền hình đạt gần 80%, số xã có bưuđiện văn hóa xã là 98,7%. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luậttrong vùng dân tộc và miền núi có chuyển biến tích cực, hệ thống chính trịthường xuyên được xây dựng, củng cố và ngày càng phát triển, nhất là hệ thốngchính trị cơ sở.
Tình hình chính trị-xã hội được ổn định, an ninh-quốc phòng được giữ vững. Đồng bào các dân tộc đoàn kết, tin tưởng vào đường lối đổi mới, thực hiện tốtcác chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện đồng bộ các chính sách cho đồng bào
Mặc dù đạt được những kết quả đáng khích lệ, song vùng đồng bào dântộc và miền núi vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tỷ lệ hộnghèo vùng dân tộc và miền núi cao nhất cả nước (khu vực miền núi Tây Bắc năm2012 là: 28,55%, miền núi Đông Bắc 17,39%; Tây Nguyên 15,58%; các tỉnh Bắc Trungbộ 15,01% trong khi tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 9,64%). Bên cạnh đó, hệ thốngcơ sở hạ tầng tuy đã được đầu tư, song vẫn còn yếu và thiếu, thườngxuyên chịu sự tàn phá của thiên tai, bão lũ.
Hệ thống cung cấp và tiếp cận các dich vụ cơ bản như: giáo dục, y tế,thông tin truyền thông... còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầuphát triển, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chất lượngnguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi còn thấp.
Những tồn tại, hạn chế trên, ngoài nguyên nhân khách quan về xuất phátđiểm, còn không ít nguyên nhân chủ quan như: Nhận thức về công tác dân tộc, vịtrí, vai trò trọng yếu của vùng dân tộc và miền núi, tầm quan trọng của đại đoànkết toàn dân tộc của một số cán bộ các cấp chưa sâu sắc; năng lực tham mưu đềxuất chính sách dân tộc của các bộ ngành, địa phương còn hạn chế; phương phápxây dựng các chính sách chưa xác định tầm nhìn chiến lược.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử, từ thực tiễn thựchiện chính sách dân tộc thời gian qua, một số bài học kinh nghiệm được rút ralà: Cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp phải cụ thể hóa Nghị quyết thànhnhững chính sách, chương trình hành động, kế hoạch cụ thể, đồng bộ và thốngnhất. Cần thường xuyên quan tâm nắm chắc diễn biến tâm tư tình cảm của đồngbào, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, phát huy dân chủcơ sở, giải quyết những bức xúc của người dân. Quan tâm tập trung nguồn lực chođầu tư vùng dân tộc và miền núi, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, giải quyết vấn đềbức xúc như giải quyết đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho các địa bàn khókhăn. Cần nâng cao vai trò tham mưu của hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc;coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan công tác dântộc, cán bộ người dân tộc thiểu số…
Các Bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trongviệc lồng ghép chính sách trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số. Để giải quyết cơbản vấn đề đói nghèo, các địa phương cần quan tâm làm tốt công tác quy hoạch, bốtrí sắp xếp dân cư, thực hiện phát triển sản xuất bền vững.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử cũng cho biết một sốđịnh hướng lớn trong thực hiện chính sách dân tộc thời gian tới theo các Nghịquyết, Quyết định của Trung ương như: Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kinhtế-xã hội cho vùng dân tộc và miền núi, nhất là các công trình trọng điểm đểphục vụ đời sống và sản xuất; g iải quyết vấn đề đất ở, đất sản xuất, nước sinhhoạt cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, giải quyết tìnhtrạng di dân tự do; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, đội ngũ cán bộlàm công tác dân tộc từ Trung ương đến các địa phương; nâng cao chất lượng giáodục và đào tạo, chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân, chất lượng nguồn nhânlực là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của vùng dân tộc và miền núi.Cần đảm bảo nguồn lực đầu tư cho các chính sách đã được ban hành, tránh đầu tưdàn trải, lãng phí; điều chỉnh lại cơ chế quản lý thực hiện chính sách dân tộctheo hướng xây dựng chương trình, chính sách tổng hợp, đa mục tiêu, dài hạn.
Thảo luận tại Hội nghị, lãnh đạo các địa phương đánh giá những mặt đạtđược, những tồn tại còn hạn chế trong việc triển khai chính sách vùng dân tộc vàmiền núi, đồng thời đề xuất việc bổ sung, sửa đổi các chính sách về kinh phí hỗtrợ cho công tác di dân, tái định cư, đào tạo cán bộ và dạy nghề cho đồng bàodân tộc.
Rà soát các chính sách, đảm bảo hiệu quả đầu tư cho vùng dân tộc và miềnnúi
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, vùng dântộc và miền núi có vị trí đặc biệt quan trọng đối với đất nước cả về kinh tế,chính trị, an ninh, quốc phòng,... Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, dành nhiềunguồn lực để thúc đẩy vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh và bền vững.
Những năm vừa qua , mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, song dưới sự lãnh đạo của Đảng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự đồngtâm nhất trí của toàn dân, nước ta đã thực hiện có hiệu quả các mục tiêuphát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là đã quan tâm chỉ đạo thực hiện đầy đủ,hiệu quả các chính sách đối với vùng dân tộc và miền núi.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ,vùng đồng bào dân tộc và miền núi vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức,trong đó nổi lên là tỷ lệ hộ nghèo còn cao, khoảng cách phát triển với vùng đồngbằng còn chênh lệch; hệ thống cơ sở hạ tầng tuy đã được đầu tư nhưngvẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Theo Thủ tướng,những yếu kém, tồn tại ngoài nguyên nhân khách quan về xuất phát điểm, còn khôngít nguyên nhân chủ quan cần phải hết sức quan tâm khắc phục như: Nhận thức vềcông tác dân tộc, vị trí, vai trò trọng yếu của vùng dân tộc và miền núi của mộtsố cán bộ các cấp chưa sâu sắc; n ăng lực tham mưu đề xuất chính sách dân tộccủa các bộ ngành, địa phương còn hạn chế; việc tổ chức thực thi chính sách ởnhiều nơi còn kém hiệu quả.
Trên tinh thần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu, các bộ, ngành, địaphương tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triểnđối với vùng dân tộc và miền núi, coi đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâmnhằm từng bước thu hẹp chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dântộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, ràsoát, điều chỉnh, đề xuất các cơ chế, chính sách đối với vùng dân tộc vàmiền núi cho phù hợp với điều kiện thực tế, đồng thời nghiên cứu, đổi mớicơ chế, biện pháp tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả của chínhsách dân tộc và miền núi.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương tập trungmạnh vào xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc và miền núi theo hướng nhanh hơn vàbền vững hơn. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các giải pháp giảm nghèocả về trước mắt và lâu dài; hết sức tránh trình trạng tái nghèo; kịp thời hỗ trợđồng bào, không để hộ đồng bào nào bị thiếu đói trong vùng bị thiên tai, lũ lụthay trong mùa giáp hạt. Cần h ỗ trợ, tạo các điều kiện thuận lợi cho đồng bàophát triển kinh tế hộ gia đình, tăng gia trồng trọt, chăn nuôi nhằm nâng cao mứcsống. Cùng với đó, tạo điều kiện hỗ trợ đồng bào gắn bó với rừng, bảo vệ rừng,làm giàu từ rừng.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương tiếptục quan tâm giải quyết tình trạng đồng bào di cư tự do; cảnh giác cao độ trướcâm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm kích động, gây mất đoàn kết, chiarẽ dân tộc, đồng thời quan tâm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, nhất là hệthống chính trị ở cơ sở.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặtchẽ, triển khai có hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án đã được phêduyệt, trong đó đặc biệt chú trọng tới thực hiện chính sách hỗ trợ đồng bào vềnhà ở, vốn phát triển sản xuất; huy động các nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sởhạ tầng kinh tế-xã hội ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa; quan tâm chăm lo pháttriển y tế, giáo dục, đào tạo nghề cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi.
Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng xem xét và cho ý kiến cụ thểđối với các đề xuất, kiến nghị của Ủy ban Dân tộc liên quan đến chính sách hỗtrợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc; chínhsách hỗ trợ định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư; Đềán phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi; Đề án hỗ trợ phát triểnkinh tế-xã hội các dân tộc rất ít người./.