Nhân kỷ niệm 85 năm thành lập Đảng, TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết ''Xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi mới'' của phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Viết Thông, Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương.
Gần 30 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Công tác xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu nhất định, cả về nhận thức lý luận và thực tiễn, đồng thời, cũng còn những hạn chế, khuyết điểm.
Những thành tựu
Nhận thức lý luận về xây dựng Đảng trong 30 năm qua đạt được những thành tựu nhất định.
Một là, Đảng ta đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng: Tiếp tục khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân như các đại hội trước, Đại hội X đã bổ sung Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Hai là, quy định rõ hơn vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống đó.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Xác định rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới, phải không ngừng hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của Việt Nam; lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đã xác định ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng. Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đến Đại hội IX, Đảng ta đã xác định khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đến Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng ta luôn nhấn mạnh yêu cầu phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Bốn là, nhận thức rõ yêu cầu đối với Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Năm là, ngày càng xác định đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, nội dung, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đảng ta khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng ta luôn nhấn mạnh vấn đề giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; có phương thức lãnh đạo khoa học.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị, Đảng ta luôn khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng, bản chất cách mạng, khoa học và nguyên tắc hoạt động của Đảng; kiên định đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc; thường xuyên nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tư tưởng, Đảng ta luôn khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; nâng cao nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; nâng cao khả năng tự đề kháng trước những quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch; coi trọng đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đại hội XI đã bổ sung chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhấn mạnh yêu cầu xây dựng văn hóa, đạo đức trong Đảng. Coi trọng đấu tranh với các biểu hiện giáo điều và cơ hội dưới mọi hình thức.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tổ chức, Đảng ta luôn khẳng định tính đồng bộ, toàn diện trong xây dựng Đảng ở mọi cấp, thấy rõ hơn, sâu sắc hơn sự tác động qua lại giữa xây dựng tổ chức đảng ở cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, mối quan hệ giữa xây dựng tổ chức với việc nâng cao chất lượng đảng viên. Đã bổ sung, phát triển các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng trong tình hình mới. Thấy rõ hơn tính đồng bộ của công tác cán bộ, từ phát hiện, quy hoạch đến đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, luân chuyển cán bộ...
Ngày càng xác định rõ hơn tiêu chuẩn của từng loại cán bộ trong thời kỳ đổi mới; nhấn mạnh các tiêu chuẩn về lập trường tư tưởng chính trị; năng lực thực tiễn thể hiện bằng hiệu quả công việc; uy tín trong Đảng, trong nhân dân; tư duy đổi mới, sáng tạo, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý có hiệu quả những vấn đề mới phát sinh; đoàn kết, quy tụ đội ngũ cán bộ, phong cách khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; công tâm, khách quan, minh bạch, trong công tác cán bộ; khả năng phát hiện và sử dụng người có đức, có tài; không tham ô, không tham nhũng; có thái độ kiên quyết đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và đấu tranh phản bác các luận điểm xuyên tạc, phản động trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng được nhận thức rõ hơn qua các nhiệm kỳ đại hội. Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) xác định Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội XI (năm 2011) đã bổ sung, phát triển thành Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Xác định dân chủ trong Đảng là điều kiện, tiền đề để phát huy dân chủ trong xã hội, từ đó, đã xác định cần thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy cơ sở đến sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng và thực hiện Quy chế chất vấn trong Đảng và các quy chế, quy định khác.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng đạt được những thành tựu. 30 năm qua, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao, các thế lực thù địch tiến công toàn diện vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta luôn vững vàng, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những thành tựu nhất định. Vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng, tăng cường, Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết quan trọng, nhất là Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) (Khóa VIII) "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay", Nghị quyết Trung ương bốn (Khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay."
Việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất định trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng cao.
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đã tiến hành nhiều cuộc tổng kết lớn như Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006); Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), góp phần làm sáng tỏ nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, phục vụ yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ban hành Hiến pháp năm 2013; Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016).
Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường hơn, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; chỉ đạo, tổ chức, triển khai đạt kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện "Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" (Khóa X) và “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (Khóa XI) gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đã chủ động hơn trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; việc đấu tranh, ngăn chặn tình trạng “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ đạt kết quả bước đầu; công tác thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.
Tổ chức bộ máy các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả.
Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và các loại hình doanh nghiệp. Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ ở tất cả các khâu, trong đó công tác quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực.
Phần lớn cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tận tụy với công việc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; trình độ các mặt được nâng lên. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng được nâng lên.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Việc xử lý kỷ luật Đảng ngày càng nghiêm minh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Công tác dân vận được đẩy mạnh góp phần tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước.
Thực hiện chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội.
Những thành tựu đạt được là do Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng kiên định, vững vàng trước mọi thách thức, lãnh đạo đưa sự nghiệp của dân tộc tiến lên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước trưởng thành. Nhân dân quan tâm góp ý, tham gia xây dựng Đảng.
Hạn chế, khuyết điểm
Bên cạnh những thành tựu trên, nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng có những hạn chế, khuyết điểm.
Về nhận thức, lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đến nay chưa đủ rõ cả về khái niệm, nội dung, mô hình, phương thức cầm quyền.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền, nói chung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội, nói riêng, chưa được xác định thật rõ và cụ thể. Chậm cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.”
Nhận thức về nội dung công tác xây dựng Đảng mới dừng lại ở mức độ nhận thức chung là Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhiều vấn đề chưa được cụ thể hóa thành các quy định để thực hiện.
Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền còn hạn chế. Nhiều vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng chưa được lý giải đầy đủ. Chưa thấy hết được tầm quan trọng về xây dựng văn hóa, đạo đức trong Đảng; chưa coi trọng đúng mức xây dựng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Về thực tiễn, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm: Nhiều hạn chế, khuyết điểm qua các nhiệm kỳ chậm được khắc phục. Việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết về xây dựng Đảng, kể cả những nghị quyết khi ban hành được toàn Đảng, toàn dân cho rằng rất đúng, rất trúng như Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) (Khóa VIII), Nghị quyết Trung ương bốn (Khóa XI), nhưng kết quả đạt được thấp, chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.
Các nguyên tắc xây dựng Đảng, như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều tổ chức đảng còn bị vi phạm. Phương thức cầm quyền chưa được xác định rõ; hiệu lực, hiệu quả cầm quyền còn hạn chế.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn diễn biến nhanh chóng, phức tạp; chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao, tính chiến đấu còn hạn chế; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có biểu hiện ngày càng phức tạp.
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phòng, chống “diễn biến hòa bình,” “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” hiệu quả còn hạn chế.
Công tác tổ chức, cán bộ còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị-xã hội chưa tinh gọn, hiệu quả. Thiếu biện pháp chỉ đạo để khắc phục có hiệu quả tình trạng yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng; còn lúng túng trong việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm, thiếu cơ chế, chính sách cụ thể. Chưa có những đổi mới mạnh mẽ các khâu của công tác cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn còn là một khâu yếu; chưa có cơ chế hiệu quả để phát hiện, trọng dụng người tài đức, loại bỏ kịp thời những người yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… không được ngăn chặn, đẩy lùi.
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng đúng mức. Chưa quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong Đảng.
Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện để kiểm tra, xử lý, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số tổ chức đảng chưa nghiêm, một số cấp ủy còn thiếu sự đoàn kết. Công tác dân vận còn nhiều bất cập; phương thức vận động nhân dân còn mang tính hành chính, tính thuyết phục chưa cao.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Chưa thật sự phát huy vai trò của tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Chưa tập trung đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng.
Những hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới mẻ, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
Những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới; sự tấn công rất thâm độc của các thế lực thù địch; mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tác động thường xuyên đến công tác xây dựng Đảng.
Chưa coi trọng đúng mức nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền. Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương. Chưa có cơ quan chuyên trách đủ mạnh nghiên cứu về đường lối, chính sách nói chung, về xây dựng Đảng nói riêng.
Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng có lúc, có nơi chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp ủy đảng và bí thư cấp ủy chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
Trong những năm tới, cần tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức; phát huy bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng "tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách, nhất là tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân; củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Trước mắt, cần tập trung rà soát, bổ sung, xây dựng mới và chỉ đạo quyết liệt hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay." Tạo chuyển biến rõ nét trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác tổ chức-cán bộ, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng./.