Là tỉnh còn nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng với tỷ lệ hộ nghèo cao, Đắk Nông là một trong các địa phương được ưu tiên nguồn lực trong quá trình triển khai chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.
Các dự án của chương trình đã góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, xây dựng các mô hình giảm nghèo hiệu quả và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho y tế, giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng đời sống người dân.
Ưu tiên “trao cần câu cho hộ nghèo”
Đắk Glong là một trong 2 huyện nghèo của tỉnh Đắk Nông. Đây cũng là địa phương được ưu tiên vốn đầu tư trong quá trình triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung, chương trình giảm nghèo bền vững nói riêng.
Theo báo cáo của ngành chức năng, tổng số vốn thuộc chương trình giảm nghèo bền vững được phân bổ cho huyện Đắk Glong giai đoạn này hơn 400 tỷ đồng, chiếm gần 40% tổng vốn thực hiện chương trình của toàn tỉnh.
Theo Ủy ban Nhân dân huyện Đắk Glong, thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững, ưu tiên hàng đầu của huyện là tập trung vào dự án “đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo.”
Các mô hình thuộc dự án này đều được xây dựng phù hợp với các đặc thù, thế mạnh và phong tục tập quán của người dân các địa phương. Ngành chức năng của huyện, chính quyền các địa phương và các hộ nghèo, cận nghèo là đối tượng thụ hưởng đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện, đảm bảo khi kết thúc chương trình, bà con “ăn nên làm ra” với mô hình sinh kế và khai thác tốt các tiềm năng sẵn có để giảm nghèo bền vững.
Tại xã Quảng Khê, huyện Đắk Glong, địa phương đông đồng bào dân tộc Mạ, một dân tộc thiểu số tại chỗ gắn bó lâu đời với miền đất này, các mô hình trồng dâu nuôi tằm đã được xây dựng và phát triển.
Theo Ủy ban Nhân dân xã Quảng Khê, địa phương có điều kiện phù hợp về đất đai, thổ nhưỡng để phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm. Đầu ra cho sản phẩm rất thuận lợi vì cơ bản được các cơ sở sản xuất lụa tơ tằm tại tỉnh Lâm Đồng bao tiêu.
Cái khó là nghề trồng dâu nuôi tằm rất xa lạ với bà con đồng bào dân tộc Mạ và việc triển khai mô hình sinh kế này khó có thể thành công nếu không có sự chung sức, đồng lòng của chính quyền địa phương và bản thân các hộ nông dân.
Quá trình triển khai các mô hình trồng dâu nuôi tằm, chính quyền xã và các cán bộ chuyên trách của huyện đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, từ hướng dẫn kỹ thuật, “cầm tay, chỉ việc” cho các hộ dân, cho đến kết nối doanh nghiệp, hộ kinh doanh đảm bảo đầu ra để bà con yên tâm sản xuất.
Đầu tiên, xã làm việc với đại diện các thôn và mời những hộ dân tâm huyết với nghề trồng dâu nuôi tằm thực hiện trước, sau đó các hộ này sẽ hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm lại cho người thân, bà con họ hàng.
Các hộ tiên phong được Ủy ban Nhân dân xã và ngành chức năng của huyện tổ chức đi tham quan nhà máy sợi tơ tằm ở thành phố Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng) và các mô hình trồng dâu, nuôi tằm hiệu quả ở địa phương trước khi bắt tay vào “khởi nghiệp.” Xã, huyện hỗ trợ bà con cây giống, kỹ thuật, phân bón, dụng cụ nuôi... để họ yên tâm học, theo nghề mới.
Bên cạnh đó, để các hộ chia sẻ, nắm bắt thông tin kịp thời, xã lập nhóm Zalo để các hộ dân chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình trồng dâu nuôi tằm. Khi ghi nhận tằm ăn không khỏe hoặc có các dấu hiệu bất thường, nhiễm bệnh..., các hộ chia sẻ hình ảnh, thông tin và được hỗ trợ, hướng dẫn xử lý.
Các thành viên trong nhóm điều phối lá dâu từ hộ thiếu sang hộ thừa, chia sẻ thông tin thị trường, việc xử lý phân bón, phụ phẩm từ quá trình trồng dâu nuôi tằm để bón cho các loại cây trồng khác...
Nhiều hộ gia đình trong xã, trong đó đa phần là bà con dân tộc Mạ, đã phát triển mạnh nghề trồng dâu, nuôi tằm và thu nhập ổn định hằng tháng từ 50-70 triệu đồng sau khi trừ đi chi phí.
Tương tự, các mô hình hỗ trợ bà con thâm canh, tái canh, chăm sóc càphê cũng được nhiều địa phương tỉnh Đắk Nông triển khai. Đây là loại cây công nghiệp có diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh và cũng góp phần giúp Đắk Nông trở thành tỉnh đứng thứ 3 cả nước.
Tham gia các mô hình, bà con được hỗ trợ cây giống, phân bón và máy móc phục vụ sản xuất... Việc triển khai các mô hình đã giúp nhiều hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ cải tạo vườn càphê, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, nhờ đó vươn lên thoát nghèo bền vững.
Anh K Khai, một hộ dân trú tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông, cho biết gia đình anh có hơn 1ha trồng càphê 8 năm tuổi. Mấy năm trước, do không thành thạo kỹ thuật chăm sóc, bón phân, mỗi năm gia đình anh chỉ thu hoạch được khoảng 2 tấn. Sau khi trừ đi các chi phí bỏ ra thì chỉ lãi được khoảng 50-60 triệu đồng.
Tuy nhiên, khi tham gia vào mô hình, K Khai được các cán bộ khuyến nông hướng dẫn cặn kẽ và “cầm tay chỉ việc” nhiều công đoạn quan trọng. Chỉ sau 1 năm, vườn cà phê của K Khai đã khoác lên một diện mạo hoàn toàn mới.
“Tôi không nghĩ là kỹ thuật chăm sóc càphê lại nhiều khâu như vậy. Ban đầu nghe cán bộ hướng dẫn tôi khá hoang mang, không tin mình làm được. Nhưng thực tế thì không khó, chỉ cần tuân thủ các hướng dẫn và thực hiện đúng trình tự, thời gian là mọi thứ sẽ ổn. Hơn nữa, gia đình tôi cũng được hỗ trợ khá nhiều nên không lo phải bỏ ra nhiều chi phí đầu tư,” K Khai chia sẻ.
Theo K Khai, muốn nâng cao năng suất vườn cà phê, phải ưu tiên việc chăm sóc, bón phân, tưới nước đầy đủ. Từ đó, cây mới khỏe và ra nhiều quả, cho năng suất cao.
Càphê là loại cây công nghiệp lâu năm, thời gian sinh trưởng dài nên cần có kế hoạch chăm sóc bài bản chứ không phải trồng lên rồi bỏ bê, được bao nhiêu thu hoạch bấy nhiêu như trước đây.
Theo Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông, tổng vốn phân bổ để thực hiện thực hiện dự án đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo thuộc chương trình giảm nghèo bền vững tại các địa phương trong tỉnh hơn 126 tỷ đồng.
Từ nguồn vốn nêu trên, các địa phương đã thực hiện 219 mô hình, dự án đa dạng hóa sinh kế phát triển mô hình giảm nghèo. Trong đó có 43 mô hình trồng trọt; 175 mô hình chăn nuôi và 1 mô hình phi nông nghiệp.
Tổng số đối tượng được hỗ trợ trên địa bàn tỉnh là gần 3.000 hộ gia đình, thuộc đối tượng hộ gia đình nghèo, cận nghèo và 95 hộ mới thoát nghèo trong vòng 36 tháng.
Các địa phương trên địa bàn tỉnh chủ yếu hỗ trợ con giống chăn nuôi cho các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng của chương trình như: chăn nuôi bò lai Sind sinh sản, chăn nuôi heo rừng F1, chăn nuôi dê, chăn nuôi gà thương phẩm, trồng dâu nuôi tằm; hỗ trợ cây giống, phân bón và máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, tái canh, thâm canh càphê...
Bên cạnh đó là tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật chăn nuôi, canh tác cho các hộ gia đình tham gia dự án. Việc triển khai có hiệu quả, bài bản dự án đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo đã góp phần kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo, đồng thời tạo ra sinh kế, nghề nghiệp mới cho hàng nghìn hộ nông dân, giúp họ tận dụng các thế mạnh, lợi thế sẵn có về nhân công lao động, điều kiện đất đai, nương rẫy... để phát triển các mô hình kinh tế phù hợp, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Đầu tư hạ tầng trọng tâm, trọng điểm, làm động lực giảm nghèo bền vững
Quá trình triển khai chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, tỉnh Đắk Nông đã ưu tiên hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn.
Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 2 huyện nghèo là huyện Tuy Đức và Đắk Glong được hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội theo Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng vốn phân bổ cho hai huyện hơn 560 tỷ đồng.
Từ nguồn vốn Chương trình, trên địa bàn 2 huyện Tuy Đức và Đắk Glong đã triển khai đầu tư xây dựng tổng số 81 công trình. Trong đó có 43 công trình giao thông; 31 công trình giáo dục; 2 công trình thủy lợi và 6 công trình văn hóa.
Điển hình, huyện Đắk Glong đã triển khai dự án đầu tư, xây dựng đường giao thông liên xã Quảng Khê-Đắk Plao. Đây là dự án đường giao thông có tổng chiều dài hơn 10km.
Trước đây, đường giao thông liên xã Quảng Khê-Đắk Plao là tuyến đường độc đạo nhưng điều kiện đi lại rất khó khăn. Mùa mưa rất lầy lội, các phương tiện xe gắn máy phải gắn xích mới di chuyển được. Khi huyện triển khai đầu tư xây dựng tuyến đường, người dân rất ủng hộ.
Việc mở rộng đường đi qua đất đai của hơn 200 hộ dân nhưng hầu hết người dân đều sẵn sàng hiến đất đai, hoa màu, vật kiến trúc... để thi công. Việc hoàn thành tuyến đường đã góp phần hoàn thiện, nâng cấp mạng lưới giao thông liên xã Quảng Khê, Đắk Plao để đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, góp phần nâng cao đời sống và thu nhập của hàng trăm hộ dân.
Tương tự, tại huyện Tuy Đức, Trường Trung học sơ sở Quang Trung (xã Đắk R’tih) đã được đầu tư xây dựng 6 phòng học với cơ sở vật chất hoàn thiện để thực hành 6 bộ môn, bao gồm Tin học, Tiếng Anh, Vật Lý, Công Nghệ, Mỹ thuật và phòng đa chức năng.
Việc đầu tư cơ sở vật chất đã giúp nhà trường nâng cao chất lượng dạy và học. Thầy cô và các em học sinh có cơ sở vật chất đạt chuẩn để học các môn thực hành. Hiện Trường Trung học sơ sở Quang Trung có gần 550 em học sinh với 12 lớp học, trong đó khoảng 85% học sinh là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ (đa số là người M’Nông).
Theo Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông, việc đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào các công trình, hạ tầng thiết yếu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc phát triển kinh tế xã hội địa phương, giúp diện mạo nông thôn, miền núi có nhiều thay đổi, chuyển biến tích cực, kết nối giao thương, lưu thông hàng hóa, nâng cao giá trị, giá cả, thu nhập các mặt hàng sản xuất của người dân, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sản xuất và dân sinh trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời, với việc đầu tư cơ sở vật chất đầy cho các công trình giáo dục đủ phục vụ cho việc dạy và học tiếp cận theo các tiêu chuẩn, yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới và góp phần thu hẹp khoảng cách về giáo dục giữa 2 huyện nghèo của tỉnh với các địa phương khác của tỉnh Đắk Nông nói riêng, cả nước nói chung.
Cũng theo Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông, tổng vốn đã phân bổ chi tiết để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2021-2025 hơn 1.040 tỷ đồng./.
Giảm nghèo ấn tượng nhưng còn nhiều thách thức
Nhờ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và một số chương trình, dự án đầu tư phát triển, tỷ lệ hộ nghèo chung toàn tỉnh Đắk Nông đã giảm bình quân mỗi năm hơn 2%.
Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 11,19% (cuối năm 2021) xuống còn xuống còn 2,99% (cuối năm 2024). Số hộ giảm tương ứng là hơn 13.000 hộ.
Đáng chú ý hơn, tỷ lệ hộ nghèo là hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giảm bình quân hàng năm hơn 5,6%. Cụ thể, cuối năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo là hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ của tỉnh Đắk Nông hơn 32% thì đến cuối năm 2024 giảm còn hơn 10%. Số hộ giảm tương ứng hơn 3.400 hộ.
Theo Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông, tỷ lệ giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 là một trong những điểm sáng nổi bật trong việc triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhờ đó, Đắk Nông đã trở thành một trong các địa phương đứng đầu tỷ lệ giảm nghèo chung của cả nước và trở thành tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo thấp thứ 2 khu vực Tây Nguyên.
Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, nhưng vẫn còn thôn, buôn thuộc vùng “lõi nghèo” của tỉnh Đắk Nông vẫn có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm 11% và cao gấp gần 4 lần so với tỷ lệ hộ nghèo chung toàn tỉnh; thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số tại chỗ thấp hơn nhiều mức thu nhập bình quân của tỉnh.