Cây đại thụ của điện ảnh Việt Nam
Nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh tên thật là Nguyên Hải Ninh. Ông sinh ngày 31/12/1931 ở Hoằng Hóa,tỉnh Thanh Hóa, nguyên Giám đốc Hãng phim Truyện Việt Nam.
Đến với điện ảnh từnăm 1956, ông theo học lớp quay phim đầu tiên do Cục Điện ảnh đào tạo và cũng làmột trong những người học lớp đạo diễn đầu tiên của Trường Điện ảnh Việt Nam.
Giới phê bình và người hâm mộ đều coi ông là cây đại thụ của nền điện ảnh cáchmạng, một trong những đạo diễn đầu tiên đã đưa điện ảnh Việt Nam tiếp cận thếgiới.
Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi bộ phim đầu tiên của ông ra mắt côngchúng nhưng hình tượng nhân vật mà ông xây dựng vẫn luôn sống mãi trong lòngkhán giả.
Nhắc tới nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh, không ai không nhớ tới những bộ phim xuất sắc do ông làmđạo diễn như “Người chiến sỹ trẻ,” “Vỹ tuyến 17 ngày và đêm,” “Em bé Hà Nội,”“Mối tình đầu,” “Thành phố lúc rạng đông”...
Gia tài tác phẩm của nghệ sỹ nhân dân Hải Ninhkhông nhiều nhưng đều là những tác phẩm xuất sắc. Trong số 3 phim tài liệu, 12phim truyện của ông thì có 8 phim giành được giải thưởng lớn trong nước và quốctế.
Phim “Người chiến sỹ trẻ” giành Bông sen vàng Liên hoan phim Việt Namlần thứ 1; Bằng khen của Hội Điện ảnh và của Đoàn Thanh niên KomxomonLiên Xô tại Liên hoan phim quốc tế Mátxcơva (năm 1965).
Phim “Vỹ tuyến 17 ngày và đêm” đoạtBông sen bạc Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2; giải thưởng Hòa bình thế giới tạiLiên hoan phim quốc tếMátxcơva 1973.
“Em bé Hà Nội” đoạt giải Bông sen vàng Liên hoan phim Việt Nam lần 2 - 1973 vàgiải đặc biệt của Liên hoan phim quốc tế Mátxcơva 1975. “Thành phố lúc rạngđông” đoạtGiải thưởng Lớn (Grand Prix) của Đức.
Năm 2007, đạo diễn Hải Ninh được trao phầnthưởng cao quý Giải thưởng Hồ Chí Minh với cụm tác phẩm “Em bé Hà Nội,” “Vĩtuyến 17 ngày và đêm,” “Người chiến sỹ trẻ,” “Mối tình đầu,” “Thành phố lúc rạngđông.” Ông được trao tặng danh hiệu nghệ sỹ nhân dân năm 1984.
Đạo diễn, nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh là người làm nhiều thể loại phim. Ông dàn dựng cả phimtruyện và phim tài liệu. Ở thể loại nào ông cũng thành công và nhận được giảithưởng.
Những tác phẩm điện ảnh của nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh luôn thấm đẫm chất sử thi,nhất là trong những tác phẩm về đề tài chiến tranh cách mạng.
Thông qua nhữngtác phẩm điện ảnh vừa có giá trị lịch sử, nghệ thuật, có sức lan tỏa mạnh mẽ,ông đã thực hiện được tâm nguyện xây dựng những tác phẩm điện ảnh xứng tầm thểhiện cuộc chiến đấu của dân tộc ta, nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược. Với đềtài chống Pháp ông có “Một ngày đầu thu,” “Người chiến sỹ trẻ;” đề tài chống Mỹcó “Vỹ tuyến 17 ngày và đêm," “Em bé Hà Nội”...
Bên cạnh những bộ phim cách mạnh lừng danh nhất của điện ảnh Việt Nam, đạo diễn,nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh cũng rất thành công với những bộ phim tâm lý xã hội khi đi sâu vàokhai thác các vấn đề bức xúc của xã hội thời kỳ hậu chiến, góp phần định hướngtư tưởng cho thanh niên thời đại mới.
Trong phim “Mối tình đầu,” ông đề cập tớitình yêu nam nữ, một đề tài nhạy cảm vào thời đó với phong cách táo bạo. Phim“Bãi biển đời người” sau đó cũng tạo được tiếng vang khi khai thác chiều sâu tâmlý, đi trước phát hiện những tín hiệu đổi mới đầu tiên.
Ông cũng được coi làngười đi tiên phong trong việc làm phim cổ trang cho điện ảnh Việt Nam thông quahai tác phẩm “Đêm hội Long Trì” và “Kiếp phù du” trong điều kiện công việc chuẩnbị cho hai phim này cực kỳ khó khăn, thiếu thốn, nhất là phần nghiên cứu phụctrang, tái hiện lịch sử, trường quay...
Chiến sỹ trên mặt trận văn hóa
Lúc sinh thời, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin, nghệ sỹnhân dân Hải Ninhluôn khẳng định quần chúng là cảm hứng, là vốn sống thực tế cho mỗi tác phẩmcủa ông, là khán giả trách nhiệm nhất. Chính tình cảm yêu mến của quần chúng,của nhân dân mỗi khi đón nhận tác phẩm điện ảnh đã tạo động lực cho ông tiếp tụcsáng tạo hết mình cho điện ảnh.
Thời kỳ đất nước đang trong khói lửa chiến tranh, khó khăn, thiếu thốn trămbề nhưng nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh và đồng nghiệp đã làm được những bộ phim thực sự hấp dẫn,mãi mãi để lại ấn tượng trong lòng các thế hệ người Việt Nam yêu điện ảnh.
Ôngchia sẻ trong khó khăn, thiếu thốn, những người nghệ sỹ như ông khi đó chỉ cómột mục đích duy nhất đó là tập trung làm phim để góp phần vào cuộc đấu tranhcủa toàn dân tộc. Người nghệ sỹ cũng chính là chiến sỹ trên mặt trận văn hóa;không ai đòi hỏi lợi ích riêng cho bản thân; lao động của người nghệ sỹ thực sựrất cực nhọc.
Đạo diễn, nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh chính là người có công đầu phát hiện, đưa đến cho điệnảnh nước nhà và công chúng những gương mặt diễn viên sáng giá như Trà Giang, LâmTới, Thế Anh, Lan Hương, Hoàng Cúc. Họ đã có những vai diễn để đời trong các bộphim của ông; tên tuổi họ đã gắn liền với những hình tượng nhân vật trong cáctác phẩm điện ảnh của nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh; vai diễn của họ hòa chung dòng chảy lịch sửcủa vận mệnh đất nước.
Với những bộ phim thuộc những thể loại khác nhau, đạodiễn Hải Ninh đã “dấn thân” vào thực tế, va chạm, cọ xát để thêm chất liệu xâydựng nhân vật và có vốn sống để chỉ đạo diễn viên.
Kịch bản phim "Vỹ tuyến 17ngày và đêm," nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh cùng Hoàng Tích Chỉ mất năm năm để viết,hai năm đểdựng; đây cũng là kịch bản phim nhựa hai tập đầu tiên của điện ảnh cách mạngViệt Nam.
Nghệ sỹ nhân dân Trà Giang khi đó đã nhiều lần gặp cô Thảo (nguyên mẫu ngoài đời)và khóc cùng những bất hạnh của cô. Riêng phần quay phim cũng phải thực hiệntrong nhiều năm mới hoàn thành, trong đó có cả những cảnh quay ở tuyến lửa... Bộphim đã góp phần đưa tên tuổi nghệ sỹ nhân dân Hải Ninh cùng các nghệ sỹ Trà Giang, Lâm Tới,Hồ Thái đến với đông đảo bạn bè quốc tế, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng côngchúng trong và ngoài nước.
Trong những ngày làm phim "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm" cũng là lúc máy bay Mỹ némbom đánh phá Hà Nội ác liệt trong 12 ngày đêm. Hà Nội trở thành một mặt trậnkhốc liệt và ý tưởng làm phim về em bé Hà Nội đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
"Embé Hà Nội" gắn liền với tên tuổi của nghệ sỹ nhân dân Lan Hương, khi đóng phim này, LanHương mới 12 tuổi, đến bây giờ đã là nghệ sỹ nhân dân, đã lên chức bà ngoại song chị vẫnđược người yêu điện ảnh gọi bằng cái tên trìu mến “Em bé Hà Nội”./.