Khi nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới không còn là duy nhất

Trung Quốc và Nga đã sẵn sàng có những hành động phản kháng mạnh mẽ và tận dụng cơ hội để làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các nước đang phát triển.
Khi nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới không còn là duy nhất ảnh 1Lãnh đạo các nước G7 tại Hội nghị thượng đỉnh G7 ở Elmau Castle, Đức, ngày 28/6/2022. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Theo báo Mainichi của Nhật Bản, Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới (G7) đã bế mạc với lời khẳng định rằng các nền dân chủ sẽ đoàn kết và tăng cường các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Nga.

Tuy nhiên, dường như cho đến nay các lệnh trừng phạt này vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra, trong khi giá cả toàn cầu tăng phi mã có một phần nguyên nhân đến từ chính các lệnh trừng phạt đó.

Bước đi chậm chạp của G7

Trung Quốc và Nga đã sẵn sàng có những hành động phản kháng mạnh mẽ và tận dụng cơ hội để làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các nước đang phát triển. Những cuộc thảo luận về trừng phạt kinh tế đối với Nga do Mỹ đóng vai trò chủ đạo đã được thúc đẩy mạnh mẽ.

Một quan chức cấp cao của chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden cho rằng bằng việc tập hợp sức mạnh chung của các nền dân chủ, thế giới có thể giải quyết được các thách thức chung.

Các tài liệu do Mỹ công bố trước thời điểm khai mạc Hội nghị đều nhấn mạnh tính hiệu quả của các lệnh trừng phạt của hơn 30 quốc gia đối với Nga. Những biện pháp này đã khiến kim ngạch nhập khẩu của Nga giảm 40% và Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này được dự báo sẽ giảm mạnh.

Bất chấp việc Mỹ đã công bố sáng kiến đầu tư hạ tầng quy mô lớn cho các nước đang phát triển để đối trọng với sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) của Trung Quốc, sáng kiến "Đối tác về Cơ sở Hạ tầng và Đầu tư Toàn cầu" (PGII) là bản sửa đổi của kế hoạch "Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn" (B3W) được giới thiệu tại cuộc họp thượng đỉnh năm ngoái của G7 với số tiền huy động lên tới 600 tỷ USD trong vòng 5 năm tới.

Tuy nhiên, một năm đã trôi qua, sáng kiến cũ của G7 dường như chưa mang lại thành quả tích cực mà thậm chí còn khiến dư luận thế giới cảm thấy thất vọng.

Về năng lượng, các nhà lãnh đạo G7 đến từ các nước Đức, Pháp, Italy, Nhật Bản, Canada, Mỹ, Anh và thành viên đặc biệt là Liên minh châu Âu (EU), đã cùng xem xét các giải pháp để vừa giảm chi phí năng lượng, vừa tôn trọng các cam kết giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.

Trước sự phản đối của các nhà hoạt động môi trường, G7 đã kết thúc hội nghị thượng đỉnh bằng một lập trường mềm mỏng hơn.

[Cam kết và những thách thức không thể tránh của các quốc gia G7]

Phát biểu trước báo giới, Chủ trì hội nghị đồng thời là Chủ tịch G7 Thủ tướng Đức Olaf Scholz nói rằng: "Khí đốt tạm thời sẽ vẫn cần thiết và đó là lý do tại sao chúng ta có thể vẫn cần những khoản đầu tư trong giai đoạn chuyển tiếp này, do đó có thể cần được hỗ trợ.”

Đối với việc chi phí năng lượng tăng cao, ý tưởng đặt ra mức “giá trần” đối với dầu mỏ và khí đốt nhập khẩu của Nga đã gây xôn xao dư luận trong những ngày trước hội nghị thượng đỉnh.

Các lệnh trừng phạt đối với dầu của Nga liên quan đến cuộc xung đột tại Ukraine đã gây ra những tác động không mong muốn, nhưng có thể lường trước được là giá dầu thô toàn cầu tăng cao. Trong bối cảnh đó, một mức “giá trần” có thể vừa làm giảm giá năng lượng đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp đồng thời vừa tác động đến dự trữ tiền mặt của Nga.

Mặc dù sự nhiệt tình của các nước là rõ ràng, nhưng cuối cùng, các lãnh đạo chỉ thông báo một thỏa thuận nhằm "nghiên cứu” lệnh cấm Nga bán dầu cao hơn một mức giá nhất định.

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cho biết: “Việc đặt giới hạn đối với dầu nhập khẩu từ Nga là một ý tưởng rất hay, nhưng ông cảnh báo có thể gặp khó khăn về kỹ thuật trong việc thực hiện”. Chính điều này đã khiến 4 thành viên trong G7 đưa ra thỏa thuận ngừng nhập khẩu vàng từ Nga, một trong những nước sản xuất lớn nhất thế giới. Đây cũng được xem là một nỗ lực thắt chặt các biện pháp trừng phạt với Moskva, làm giảm dòng tài chính chảy về nước này.

Cùng với việc thắt chặt các biện phát trừng phạt Nga, Hội nghị thượng đỉnh G7 cũng tập trung vào việc giúp đỡ Ukraine. Các nhà lãnh đạo đã cam kết hỗ trợ hơn 30 tỷ euro (khoảng 31,6 tỷ USD) cho ngân sách và các vấn đề nhân đạo.

Nhằm chống lại cuộc khủng hoảng đói nghèo đang gia tăng từng ngày trên toàn cầu, đặc biệt kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine, G7 cũng cho biết họ sẽ cung cấp 4,5 tỷ USD để cứu trợ nạn đói.

Tuy nhiên, các nhà hoạt động đã chỉ trích thông báo này, cho rằng con số này là quá ít. Giám đốc chiến dịch của Oxfam ông Charlotte Becker cho biết trong một tuyên bố rằng: “4,5 tỷ USD là cam kết quá ít để có thể chấm dứt cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu, cũng như ngăn chặn việc ngày càng có nhiều người rơi vào cảnh nghèo đói.”

Theo đại diện của Oxfarm, cần thêm ít nhất 28 tỷ USD để chấm dứt nạn đói và tài trợ cho những lời kêu gọi giúp đỡ của Liên hợp quốc.

Là một câu lạc bộ không chính thức của 7 quốc gia giàu có nhất thế giới, G7 thường xuyên bị chỉ trích vì có sức ảnh hưởng quá lớn đến kinh tế toàn cầu nhưng lại không tuân thủ nhiều cam kết.

Khi nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới không còn là duy nhất ảnh 2Ngân hàng Thế giới (WB). (Ảnh: THX/TTXVN)

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các nước thành viên G7 chiếm đáng kể, tới 45% nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, con số này đã giảm xuống từ mức gần 70% của 30 năm trước.

Các lệnh trừng phạt mà G7 tuyên bố có thực sự hiệu quả?

Thực tế cho thấy tình hình tại Ukraine vẫn tiếp tục bế tắc và chưa cho thấy rõ hiệu quả của các lệnh trừng phạt. Nỗ lực giảm thiểu và loại bỏ sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô như dầu mỏ và khí đốt của Nga đang khiến giá năng lượng tăng chóng mặt, mang lại lợi thế lớn cho Nga. Tổng thống Nga Vladimir Putin trong phát biểu ngày 17/6 vừa qua khẳng định rằng các biện pháp trừng phạt kinh tế của Mỹ và phương Tây đã phản tác dụng.

Mặt khác, các lệnh trừng phạt nhằm vào Nga đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu ở nhiều góc độ khác nhau. Một số nước châu Âu, trong đó có Đức, đang phải tính đến phương án mở rộng sản xuất nhiệt điện than, đi ngược lại những cam kết về chống biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của việc trừng phạt nhằm vào các ngân hàng lớn của Nga, việc thanh toán tài chính liên quan đến phân bón cho các nước đặt cơ sở sản xuất ở Nga cho các nước khác bị đình trệ làm giá phân bón tăng mạnh.

Các nước đang phát triển vốn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 đang ngày càng tỏ ra không “mặn mà” với các biện pháp trừng phạt vì họ cho rằng biện pháp này khiến giá ngũ cốc tăng quá nhanh, thúc đẩy khủng hoảng lương thực toàn cầu. Theo Liên minh châu Phi (AU), việc loại các ngân hàng của Nga khỏi hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT đã cản trở thanh toán quốc tế và làm chậm quá trình nhập khẩu hàng hóa của các quốc gia châu Phi.

Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida tại hội nghị thượng đỉnh G7 lần này đã nhấn mạnh rằng tuyên bố của Tổng thống Putin cho rằng các lệnh trừng phạt của G7 áp đặt đã dẫn đến khủng hoảng lương thực toàn cầu là hoàn toàn sai, mà việc chấm dứt cuộc xung đột Nga-Ukraine mới là nguyên nhân sâu xa của vấn đề này.

Đồng thời, ông Kishida cũng cho rằng muốn chấm dứt khủng hoảng lương thực thì các nước phải đoàn kết để ngăn chặn cuộc xung đột này. Cũng trong Hội nghị lần này, nhà lãnh đạo Nhật Bản đã tuyên bố sẽ viện trợ 200 triệu USD để hỗ trợ Ukraine xuất khẩu ngũ cốc và hỗ trợ lương thực cho các nước Trung Đông và châu Phi.

Ở một diễn biến khác, Chủ tịch Hội đồng châu Âu Charles Michel đã bày tỏ lo ngại về “tác dụng phụ” của các lệnh trừng phạt và cho rằng phải cần cố gắng không làm tổn thương đến chính các nước này và nhiều nước khác.

Việc các nước G7 tái khẳng định sẽ tiếp tục áp đặt các lệnh trừng phạt nhằm vào Nga với sự hợp tác chưa từng có đã tiếp tục làm dấy lên những lo lắng về một viễn cảnh thế giới ngày càng mệt mỏi bởi các lệnh trừng phạt khi xung đột địa chính trị vẫn còn kéo dài.

G7-NATO không còn "độc diễn"

Chỉ trong một tuần lễ, lần lượt các Hội nghị thượng đỉnh của G7, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), khối bao gồm các nền kinh tế lớn mới nổi Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi (BRICS) và thượng đỉnh Caspi… đã diễn ra cùng một lúc.

Khi nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới không còn là duy nhất ảnh 3Cờ NATO. (Nguồn: Reuters)

Trong khi NATO chuẩn bị kết nạp thêm hai thành viên và đưa ra “khái niệm mới về chiến lược” căng thẳng Nga-Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt còn Trung Quốc vẫn giữ nguyên lập trường ủng hộ Nga trước các đòn trừng phạt kinh tế, tài chính của châu Âu và Mỹ.

Liên quan đến vấn đề này, hai chuyên gia Pháp về địa chính trị và quan hệ quốc tế Florent Parmentier và Barthélémy Courmont đã trả lời câu hỏi liệu trật tự thế giới có còn trong tay các nước phương Tây nữa hay không, và ai đang áp đặt quan điểm về Quan hệ Quốc tế và Chiến lược?

Chuyên gia Florent Parmentier giảng dạy tại trường Khoa học Chính trị Paris Sciences Po, trong khi Barthélémy Courmont là Giám đốc nghiên cứu đặc trách về chương trình châu Á-Thái Bình Dương của Viện Quan hệ Quốc tế Chiến lược IRIS.

Tại thượng đỉnh NATO được tổ chức ở thành phố Madrid (Tây Ban Nha) khai mạc ngày 29/6, lãnh đạo 30 nước thành viên đã công bố “khái niệm chiến lược mới” cho giai đoạn 10 năm tới đây với hai điểm nổi bật. Trong đó, lần đầu tiên, NATO đề cập đến thách thức Trung Quốc mà Bắc Kinh đang đặt ra đối với tình hình “an ninh, lợi ích và những giá trị chung” của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương.

Cùng ngày tại Achgabat của Turkmenistan, Tổng thống Nga Vladimir Putin dự thượng đỉnh các quốc gia bao quanh biển Caspi. Điều này chứng tỏ Điện Kremlin không bị cô lập về ngoại giao vì những căng thẳng liên quan đến Ukraine. Trước đó tại Berlin (Đức), G7 đã đề cập đến nhiều hồ sơ, từ cuộc xung đột Ukraine đến khí hậu và nhất là an ninh lương thực trên thế giới.

Vào lúc lãnh đạo Mỹ, Canada, Nhật và Anh, Pháp, Đức, Italy lên đường đến Berlin, thì tại Bắc Kinh, Chủ tịch Tập Cận Bình đã họp trực tuyến, chủ trì thượng đỉnh BRICS nhằm quy tụ 5 nền kinh tế đang trỗi dậy gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi.

Một hoạt động ngoại giao khác ít được báo chí đưa tin đó là việc Tổng thống Indonesia công du Nga và Ukraine.

Với tư cách Chủ tịch Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20), ông Joko Widodo đề nghị “đứng ra làm trung gian” giải quyết cuộc xung đột, mời hai Tổng thống Vladimir Putin và Volodymyr Zelensky dự thượng đỉnh Bali vào tháng 11/2022.

Trang mạng thông tin của Pháp Atlantico.fr có khuynh hướng bảo thủ đã nêu câu hỏi rằng liệu hàng loạt các hoạt động ngoại giao diễn ra trong tuần qua có là dấu hiệu cho thấy G7 và NATO đang bị “cạnh tranh” và không còn giữ được ảnh hưởng lớn như trước hay không?

Giám đốc nghiên cứu thuộc Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược IRIS Barthélémy Courmont nhắc lại rằng trong quá khứ, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, G7 là biểu tượng của sức mạnh thế giới tự do, của khối “Tây Phương” (Nhật Bản là đồng minh chặt chẽ của Mỹ trong khối tự bản tự do). Khối này đã thâu nạp thêm Liên bang Nga vào năm 1996 (dưới tên gọi G7+1 hay đơn giản hơn là G8). Tuy nhiên, Moskva đã bị loại trừ sau sự kiện Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014. Thế rồi khối BRICS đã khai sinh. BRICS chiếm 42% dân số toàn cầu và 23% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của thế giới.

G7 dần trở thành một “câu lạc bộ” của các nước giàu giữa lúc ảnh hưởng của các quốc gia đang trỗi dậy như Trung Quốc, Ấn Độ hay Brazil càng lúc càng lớn. Từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nhóm G20 quy tụ 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới đã được hình thành, với những nước như Indonesia Thổ Nhĩ Kỳ…

Khi nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới không còn là duy nhất ảnh 4Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Tuy nhiên, G7 ngày càng suy yếu dưới nhiệm kỳ của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, bởi chủ nhân Nhà Trắng “rất ít quan tâm đến các đồng minh theo mô hình thế giới đa cực.” Sau bốn năm nhiệm kỳ của ông Trump, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã cố gắng thổi một làn gió mới vào G7, một khối “dân chủ.”

Phát biểu qua cầu truyền hình hôm khai mạc thượng đỉnh nhóm BRICS và dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Tập Cận Bình, Tổng thống Vladimir Putin đã kêu gọi các đối tác “hợp tác chặt chẽ” để chống lại những biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga.

Câu hỏi đặt ra lúc này là liệu BRICS đã đủ “nặng” để áp đặt quan điểm trên bàn cờ quan hệ quốc tế hay chưa? Các chuyên gia Parmentier và Courmont đều trả lời là chưa. Tuy nhiên, có một điều rõ ràng đó là thế giới bắt đầu “giữ khoảng cách với châu Âu và Mỹ.”

Xu thế thận trọng với các mô hình phương Tây

Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều tránh “về phe” phương Tây để lên án Nga trong cuộc xung đột với Ukraine. Ngược lại, New Delhi và Bắc Kinh còn tận dụng cơ hội này để mua nguyên liệu và năng lượng Nga với giá rẻ.

Trung Quốc không ngần ngại tuyên bố “sẵn sàng hợp tác với Nga để tiếp tục hỗ trợ lẫn nhau vì những lợi ích cốt lõi của mỗi bên liên quan đến chủ quyền và an ninh”. Chính vì thế, chuyên gia Florent Parmentier kết luận rằng BRICS có thể liên kết với nhau để có một tiếng nói mạnh hơn, song “lợi ích của nhóm này thường có nhiều mâu thuẫn.”

Trong khi đó, chuyên gia Barthélémy Courmont chú ý nhiều hơn đến thái độ của Ấn Độ liên quan đến cuộc xung đột Ukraine. Theo chuyên gia này, đây là một dấu hiệu của tiến trình “phi Tây phương hóa.”

Châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và cả Trung Đông đều đang có xu hướng “rời xa” phương Tây trong vấn đề Ukraine. Điều này cho thấy phương Tây đang “ngày càng bị cô lập.”

Tháng 11/2019, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron từng tuyên bố Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đang ở trong tình trạng “chết não,” nhưng từ khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra, liên minh quân sự này đã được “hồi sinh,” với việc tăng ngân sách quốc phòng và chuẩn bị kết nạp thêm hai thành viên mới là Thụy Điển và Phần Lan sát cạnh nước Nga.

Giám đốc nghiên cứu thuộc Viện IRIS Barthélémy Courmont thận trọng nói đến một “sự bật dậy” từ phía NATO, nhưng hiện vẫn chưa thể kết luận liệu liên minh này đã thoát khỏi tình trạng “chết não” hay chưa?

Vì cuộc xung đột Nga-Ukraine, người ta thấy rằng thời kỳ mà NATO có thể bảo vệ những giá trị phổ quát dường như đã qua. Liên minh quân sự này có thể sẽ mở rộng thêm đến những thành viên mới nhưng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo đó?

Trong bối cảnh này, trong một chừng mực nào đó nhận xét của Tổng thống Pháp Emmanuel Macronhồi năm 2019 đến nay vẫn còn tính thời sự hơn bao giờ hết”./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục