Những năm gần đây, song song với tự do hóa thương mại toàn cầu, các biện pháp chống bán phá giá được áp dụng ngày càng nhiều.
Khi hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ngày càng gia tăng và chiếm thị phần lớn cũng là nguyên nhân khiến các nước nhập khẩu đẩy mạnh hành vi bảo vệ lợi ích của họ bằng các biện pháp chống bán phá giá và tự vệ.
Do đó các doanh nghiệp Việt phải chủ động đối đầu với những vụ kiện chống bán phá giá có thể dấy lên bất cứ lúc nào.
Thu hút FDI càng tăng càng dễ bị kiện
Theo thạc sỹ Nguyễn Chi Mai - Trưởng Ban phòng vệ thương mại, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), các vụ kiện chống bán phá giá và trợ cấp ngày càng có xu hướng tăng lên và thường xuyên đối với các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN… do nền kinh tế các nước này phát triển chủ yếu dựa vào xuất khẩu, hàng hóa ngày càng tăng và doanh nghiệp tham gia vào xuất khẩu ngày càng nhiều hơn.
Các chuyên gia nhận định, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng và chủ động hơn vào các hoạt động hội nhập quốc tế, lượng hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ngày càng tăng cùng với tăng trưởng thu hút đầu tư nước nước ngoài (FDI). Như vậy hàng hóa Việt Nam trong thời gian tới sẽ có tăng trưởng đáng kể, đem lại lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Tuy nhiên, trước làn sóng thu hút FDI ngày càng tăng, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam có nguy cơ phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá và trợ cấp tăng lên. Trong 6 tháng đầu năm 2012, Việt Nam có 4 vụ kiện về phòng vệ thương mại.
Trước kia, các sản phẩm bị kiện chống bán phá giá và trợ cấp của Việt Nam thường là những sản phẩm có giá trị xuất khẩu lớn đem lại giá trị gia tăng cao như tôm, cá, da giày…
Nhưng những vụ kiện gần đây không rơi vào những sản phẩm chủ lực của Việt Nam mà chủ yếu là những mặt hàng có kim ngạch nhỏ hay những sản phẩm của doanh nghiệp FDI.
Bên cạnh đó, các hiện tượng gian lận thương mại, lẩn tránh thuế chống bán phá giá ngày càng tăng khiến các trị trường Mỹ, EU ngày càng nghiêm ngặt hơn đối với hành vi này.
Cụ thể, khi các doanh nghiệp bị kiện chống bán phá giá tại một số thị trường và không thể xuất khẩu sang các thị trường đó được nữa thì lại luân chuyển đầu tư những sản phẩm bị áp thuế chống bán phá giá sang Việt Nam dưới hình thức FDI. Hành vi lẩn tránh thuế chống bán phá giá này là một trong những nguyên nhân khiến hàng hóa Việt Nam bị đánh thuế tăng lên theo dòng chảy của FDI.
Thách thức với các vụ kiện chống bán phá giá
Khi bị kiện chống bán phá giá, các doanh nghiệp thường bị động trong điều tra ban đầu. Thạc sỹ Nguyễn Chi Mai đưa ra cảnh báo các nước nhập khẩu, đặc biệt Mỹ và EU là những thị trường gia tăng hàng xuất khẩu Việt Nam với thị phần lớn lại đang có xu hướng kiện “kép” (chống bán phá giá + trợ cấp) trong các vụ việc phòng vệ thương mại đối với Việt Nam đã làm tăng rủi ro, bất lợi cho doanh nghiệp bị kiện.
Vụ kiện kép chống bán phá giá/trợ cấp bắt đầu năm 2009 với vụ túi nhựa PE và đến nay đã có thêm 2 vụ ống thép và mắc áo xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải bỏ gấp đôi thời gian, công sức và tiền bạc để thuê luật sư tư vấn, chuẩn bị tài liệu, gửi bảng câu hỏi... Nếu kết luận cuối cùng dẫn đến việc áp cả hai loại thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp, doanh nghiệp rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng” khi cùng lúc phải chịu hai thứ thuế, việc cạnh tranh tại thị trường Mỹ là vô cùng khó khăn.
Bên cạnh đó, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) sẽ có một số chính sách mới đối với nền kinh tế phi thị trường, đây sẽ là những thách thức rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, chẳng hạn như DOC sẽ áp dụng chọn ngẫu nhiên bị đơn bắt buộc thay vì chọn các doanh nghiệp lớn nhất và thay đổi một số chính sách liên quan đến giá trị thay thế.
Thực tế cho thấy khối lượng các vụ kiện chống bán phá giá nói chung và các biện pháp phòng vệ thương mại nói riêng được áp dụng nhiều và tăng nhanh trong giai đoạn suy thoái kinh tế.
Các chuyên gia pháp lý đã chỉ ra rằng khi kinh tế khó khăn, các nhà sản xuất nước ngoài bắt buộc phải bán hàng với giá thấp hơn để giảm lượng hàng tồn kho khiến các nhà sản xuất nội địa gặp khó khăn hơn và chính việc bán giá thấp này đã bị cho là hành vi chống bán phá giá.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến các vụ kiện chống bán phá giá và phòng vệ thương mại nảy sinh nhiều hơn trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng.
Chủ động ứng phó
Theo các chuyên gia, khi bị kiện chống bán phá giá/trợ cấp, các doanh nghiệp cần tích cực, chủ động tham gia kháng kiện và phối hợp đoàn kết giữa các doanh nghiệp với nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc là rất cần thiết để đạt được kết quả cuối cùng có tác động rất lớn đến doanh nghiệp toàn ngành.
Theo quy định của Mỹ thì chỉ có một số doanh nghiệp được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc và được tính mức thuế suất riêng, mức thuế của các doanh nghiệp còn lại sẽ được tính dựa trên mức thuế của những doanh nghiệp được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc.
Do đó, các doanh nghiệp còn lại nên tham gia vào vụ kiện với tư cách là bị đơn tự nguyện bằng cách gửi thông tin tự giới thiệu mình với cơ quan điều tra và trả lời bảng câu hỏi điều tra. Đồng thời các doanh nghiệp phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bởi vai trò của Nhà nước có tác động rất lớn trong vận động hành lang.
Để giảm thiểu động cơ kiện chống bán phá giá của các nhà sản xuất nội địa, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm nhằm chứng minh hàng hóa Việt Nam không phải là đối thủ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước.
Những sản phẩm bị kiện của Việt Nam thường rơi vào những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, sản xuất hàng loạt, sử dụng nhiều tài nguyên môi trường…
Do đó các doanh nghiệp cần tăng cường sản xuất những mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn bằng cách đầu tư máy móc, công nghệ nhằm ngăn ngừa các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam .
Theo Luật sư Đinh Ánh Tuyết - Giám đốc Công ty Luật IDVN, khi Việt Nam tham gia vào WTO cũng như các Hiệp định thương mai tự do, khả năng xảy ra những “làn sóng” về kiện chống bán phá giá là không thể tránh khỏi. doanh nghiệp nên xem đây là một trong những hoạt động, sân chơi bình đẳng trong hoạt động xuất khẩu.
Khi gặp phải những vụ kiện này, doanh nghiệp phải giữ vai trò chủ động, trung tâm vì doanh nghiệp là những đối tượng bị kiện, ngay cả trong các vụ kiện chống trợ cấp cũng phải tham gia trả lời các bảng câu hỏi.
Đặc biệt trong các vụ kiện chống bán phá giá, kết quả của các vụ kiện cũng ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, sự tham gia chủ động doanh nghiệp mới có thể giữ vững được thị trường xuất khẩu của mình.
Khi tham gia, quan trọng nhất là phối hợp với hiệp hội thuê luật sư ngay từ đầu để được tư vấn đầy đủ về cách thức trả lời các bảng câu hỏi, nộp bảng câu hỏi đúng hạn và chất lượng thông tin phải đảm bảo vì bảng trả lời là cơ sở để xác định mức thuế suất./.
Khi hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ngày càng gia tăng và chiếm thị phần lớn cũng là nguyên nhân khiến các nước nhập khẩu đẩy mạnh hành vi bảo vệ lợi ích của họ bằng các biện pháp chống bán phá giá và tự vệ.
Do đó các doanh nghiệp Việt phải chủ động đối đầu với những vụ kiện chống bán phá giá có thể dấy lên bất cứ lúc nào.
Thu hút FDI càng tăng càng dễ bị kiện
Theo thạc sỹ Nguyễn Chi Mai - Trưởng Ban phòng vệ thương mại, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), các vụ kiện chống bán phá giá và trợ cấp ngày càng có xu hướng tăng lên và thường xuyên đối với các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN… do nền kinh tế các nước này phát triển chủ yếu dựa vào xuất khẩu, hàng hóa ngày càng tăng và doanh nghiệp tham gia vào xuất khẩu ngày càng nhiều hơn.
Các chuyên gia nhận định, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng và chủ động hơn vào các hoạt động hội nhập quốc tế, lượng hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ngày càng tăng cùng với tăng trưởng thu hút đầu tư nước nước ngoài (FDI). Như vậy hàng hóa Việt Nam trong thời gian tới sẽ có tăng trưởng đáng kể, đem lại lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Tuy nhiên, trước làn sóng thu hút FDI ngày càng tăng, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam có nguy cơ phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá và trợ cấp tăng lên. Trong 6 tháng đầu năm 2012, Việt Nam có 4 vụ kiện về phòng vệ thương mại.
Trước kia, các sản phẩm bị kiện chống bán phá giá và trợ cấp của Việt Nam thường là những sản phẩm có giá trị xuất khẩu lớn đem lại giá trị gia tăng cao như tôm, cá, da giày…
Nhưng những vụ kiện gần đây không rơi vào những sản phẩm chủ lực của Việt Nam mà chủ yếu là những mặt hàng có kim ngạch nhỏ hay những sản phẩm của doanh nghiệp FDI.
Bên cạnh đó, các hiện tượng gian lận thương mại, lẩn tránh thuế chống bán phá giá ngày càng tăng khiến các trị trường Mỹ, EU ngày càng nghiêm ngặt hơn đối với hành vi này.
Cụ thể, khi các doanh nghiệp bị kiện chống bán phá giá tại một số thị trường và không thể xuất khẩu sang các thị trường đó được nữa thì lại luân chuyển đầu tư những sản phẩm bị áp thuế chống bán phá giá sang Việt Nam dưới hình thức FDI. Hành vi lẩn tránh thuế chống bán phá giá này là một trong những nguyên nhân khiến hàng hóa Việt Nam bị đánh thuế tăng lên theo dòng chảy của FDI.
Thách thức với các vụ kiện chống bán phá giá
Khi bị kiện chống bán phá giá, các doanh nghiệp thường bị động trong điều tra ban đầu. Thạc sỹ Nguyễn Chi Mai đưa ra cảnh báo các nước nhập khẩu, đặc biệt Mỹ và EU là những thị trường gia tăng hàng xuất khẩu Việt Nam với thị phần lớn lại đang có xu hướng kiện “kép” (chống bán phá giá + trợ cấp) trong các vụ việc phòng vệ thương mại đối với Việt Nam đã làm tăng rủi ro, bất lợi cho doanh nghiệp bị kiện.
Vụ kiện kép chống bán phá giá/trợ cấp bắt đầu năm 2009 với vụ túi nhựa PE và đến nay đã có thêm 2 vụ ống thép và mắc áo xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải bỏ gấp đôi thời gian, công sức và tiền bạc để thuê luật sư tư vấn, chuẩn bị tài liệu, gửi bảng câu hỏi... Nếu kết luận cuối cùng dẫn đến việc áp cả hai loại thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp, doanh nghiệp rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng” khi cùng lúc phải chịu hai thứ thuế, việc cạnh tranh tại thị trường Mỹ là vô cùng khó khăn.
Bên cạnh đó, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) sẽ có một số chính sách mới đối với nền kinh tế phi thị trường, đây sẽ là những thách thức rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, chẳng hạn như DOC sẽ áp dụng chọn ngẫu nhiên bị đơn bắt buộc thay vì chọn các doanh nghiệp lớn nhất và thay đổi một số chính sách liên quan đến giá trị thay thế.
Thực tế cho thấy khối lượng các vụ kiện chống bán phá giá nói chung và các biện pháp phòng vệ thương mại nói riêng được áp dụng nhiều và tăng nhanh trong giai đoạn suy thoái kinh tế.
Các chuyên gia pháp lý đã chỉ ra rằng khi kinh tế khó khăn, các nhà sản xuất nước ngoài bắt buộc phải bán hàng với giá thấp hơn để giảm lượng hàng tồn kho khiến các nhà sản xuất nội địa gặp khó khăn hơn và chính việc bán giá thấp này đã bị cho là hành vi chống bán phá giá.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến các vụ kiện chống bán phá giá và phòng vệ thương mại nảy sinh nhiều hơn trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng.
Chủ động ứng phó
Theo các chuyên gia, khi bị kiện chống bán phá giá/trợ cấp, các doanh nghiệp cần tích cực, chủ động tham gia kháng kiện và phối hợp đoàn kết giữa các doanh nghiệp với nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc là rất cần thiết để đạt được kết quả cuối cùng có tác động rất lớn đến doanh nghiệp toàn ngành.
Theo quy định của Mỹ thì chỉ có một số doanh nghiệp được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc và được tính mức thuế suất riêng, mức thuế của các doanh nghiệp còn lại sẽ được tính dựa trên mức thuế của những doanh nghiệp được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc.
Do đó, các doanh nghiệp còn lại nên tham gia vào vụ kiện với tư cách là bị đơn tự nguyện bằng cách gửi thông tin tự giới thiệu mình với cơ quan điều tra và trả lời bảng câu hỏi điều tra. Đồng thời các doanh nghiệp phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bởi vai trò của Nhà nước có tác động rất lớn trong vận động hành lang.
Để giảm thiểu động cơ kiện chống bán phá giá của các nhà sản xuất nội địa, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm nhằm chứng minh hàng hóa Việt Nam không phải là đối thủ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước.
Những sản phẩm bị kiện của Việt Nam thường rơi vào những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, sản xuất hàng loạt, sử dụng nhiều tài nguyên môi trường…
Do đó các doanh nghiệp cần tăng cường sản xuất những mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn bằng cách đầu tư máy móc, công nghệ nhằm ngăn ngừa các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam .
Theo Luật sư Đinh Ánh Tuyết - Giám đốc Công ty Luật IDVN, khi Việt Nam tham gia vào WTO cũng như các Hiệp định thương mai tự do, khả năng xảy ra những “làn sóng” về kiện chống bán phá giá là không thể tránh khỏi. doanh nghiệp nên xem đây là một trong những hoạt động, sân chơi bình đẳng trong hoạt động xuất khẩu.
Khi gặp phải những vụ kiện này, doanh nghiệp phải giữ vai trò chủ động, trung tâm vì doanh nghiệp là những đối tượng bị kiện, ngay cả trong các vụ kiện chống trợ cấp cũng phải tham gia trả lời các bảng câu hỏi.
Đặc biệt trong các vụ kiện chống bán phá giá, kết quả của các vụ kiện cũng ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, sự tham gia chủ động doanh nghiệp mới có thể giữ vững được thị trường xuất khẩu của mình.
Khi tham gia, quan trọng nhất là phối hợp với hiệp hội thuê luật sư ngay từ đầu để được tư vấn đầy đủ về cách thức trả lời các bảng câu hỏi, nộp bảng câu hỏi đúng hạn và chất lượng thông tin phải đảm bảo vì bảng trả lời là cơ sở để xác định mức thuế suất./.
Việt Âu (TTXVN)