Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội của Tổng cục Thống kê công bố cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Chín tăng 0,4% so với tháng Tám. Như vậy, CPI bình quân quý 3 đã tăng 3,32%, song bình quân 9 tháng chỉ tăng 2,73% so với cùng kỳ đồng thời lạm phát cơ bản tăng 1,88%.
Nhóm giáo dục tăng cao nhất với 9,57%
Bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê Giá (Tổng cục Thống kê) chỉ ra một số nguyên nhân tác động đến CPI trong tháng Chín. Cụ thể, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu trên thị trường đã “leo thang” theo giá nguyên liệu đầu vào và một số địa phương tăng học phí năm học mới 2022-2023.
Trong rổ hàng hóa và dịch vụ, nhóm giáo dục tăng cao nhất với 9,57% so với tháng 12/2021 và tác động đến CPI chung tăng 0,59 điểm phần trăm.
[Kinh tế 9 tháng: Xuất khẩu duy trì tăng trưởng trong khó khăn]
Bên cạnh đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống cũng đắt đỏ hơn với mức tăng 4,99%, chủ yếu đến từ nhóm dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 5,96%, lương thực tăng 1,68% và thực phẩm tăng 5,18%.
Bà Oanh cho biết nhóm văn hóa, giải trí và du lịch đã tăng lên 4,65% do nhu cầu du lịch trong nước tăng cao sau khi dịch COVID-19 được kiểm soát. Ngoài ra, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng cao hơn 4,69% chủ yếu do giá vật liệu bảo dưỡng nhà và cho thuê tăng. Thêm vào đó, nhóm giao thông cũng tăng 2,69%, trong đó giá xăng dầu tăng 1,07% (từ đầu năm đến nay, giá xăng dầu trong nước đã điều chỉnh 25 đợt).
Nhìn chung trong 9 tháng năm nay, giá xăng A95 giảm 710 đồng/lít, xăng E5 giảm 770 đồng/lít và dầu diezen tăng 4.960 đồng/lít. Bình quân giá xăng dầu trong nước đã tăng 41,07% so với cùng kỳ và tác động làm CPI chung tăng 1,48 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, giá ăn uống ngoài gia đình cũng tăng 4,38% so với cùng kỳ, tác động CPI chung tăng 0,38 điểm phần trăm. Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới cũng góp phần làm CPI chung tăng 0,27 điểm phần trăm, cụ thể giá gas đã tăng 18,75% so với cùng kỳ.
Mặt khác, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở đã tăng 7,88% (do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào) đã tác động làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm. Và, giá các mặt hàng thực phẩm 9 ghi nhận mức tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI tăng 0,11 điểm phần trăm.
“Mức lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng đã tăng 1,88% so với cùng kỳ năm 2021 song vẫn thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 2,73%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực và giá xăng, dầu,” bà Oanh nói.
Đánh giá tình hình chung, bà Oanh phân tích lạm phát thế giới tiếp tục tăng cao, đặc biệt tại khu vực châu Âu và Mỹ. Trong tháng Tám, lạm phát của khu vực đồng Euro tăng lên mức cao kỷ lục 9,1% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát của Mỹ tăng 8,3%, tuy thấp hơn mức tăng 8,5% của tháng Bảy nhưng cao hơn kỳ vọng làm Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục tăng lãi suất lần thứ 5 (ngày 21/9) để thắt chặt chính sách tiền tệ. Tại châu Á, lạm phát của Thái Lan tăng 7,9%, Hàn Quốc tăng 5,7%, Indonesia tăng 4,7%, Nhật Bản tăng 3%, Trung Quốc tăng 2,5%.
“Như vậy, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm các nước có mức tăng lạm phát thấp so với mặt bằng chung khi CPI tháng Chín chỉ tăng 3,94% so với cùng kỳ năm 2021,” bà Oanh nói.
Quản lý và điều hành giá thận trọng
Theo bà Oanh, kinh tế trong nước nghi nhận mức phục hồi mạnh, theo đó nhu cầu sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu cùng với tác động của giá hàng hóa thế giới đã đẩy giá hàng hóa, dịch vụ thiết yếu tăng. Nhưng, nhìn chung mặt bằng giá trên thị trường cơ bản được kiểm soát.
Để chủ động ứng phó với áp lực lạm phát gia tăng, bà Oanh nhấn mạnh trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương ban hành kịp thời nhiều chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế -xã hội.
“Các chính sách phù hợp cùng với sự quyết liệt, sát sao trong chỉ đạo, điều hành đã giúp giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân,” bà Oanh chia sẻ,
Bà Oanh chỉ ra một số chính sách rất hiệu quả, như việc giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa và dịch vụ từ 10% xuống 8% từ ngày 1/2, giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 1/1 đến hết ngày 31/12, giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động…
Đến nay, mặt bằng giá trong nước cơ bản được kiểm soát. Tuy nhiên, bà Oanh cho rằng áp lực lạm phát trong những tháng còn lại của năm vẫn hiện hữu. Do, diễn biến giá cả hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đang có xu hướng giảm do tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, nhưng rủi ro tăng trở lại khá cao do xung đột giữa Nga-Ukraina chưa chấm dứt. Bên cạnh đó, sự phục hồi kinh tế Trung Quốc có thể kéo nhu cầu năng lượng gia tăng.
“Kinh tế Việt Nam có khả năng phục hồi mạnh hơn trong các tháng còn lại của năm nhờ tác động của các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng cùng với nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng. Song, những điều này sẽ đẩy giá cả hàng hóa lên cao. Chính vì vậy, công tác quản lý, điều hành giá trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện thận trọng, chủ động và linh hoạt để bảo đảm kiểm soát tốc độ tăng giá tiêu dùng năm 2022 đồng thời tạo cơ sở cho việc kiểm soát lạm phát trong năm 2023,” bà Oanh đề xuất./.