Do đó, nhiều giải pháp đang được đặt ra trong bốicảnh hiện nay như: quản lý rừng bền vững, đổi mới trong thiết kế, sử dụng cácloại gỗ ít được biết đến... nhằm giảm gánh nặng chi phí, chủ động nguồn cungnguyên liệu.
Giảm sức ép lên rừng tự nhiên
Bên cạnh sự đóng góp của nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng và rừng tự nhiêntrong nước, hiện nay Việt Nam vẫn phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu đượcnhập khẩu từ bên ngoài. Trong khi lượng gỗ cung ứng trong nước có hạn, đặc biệtlà lượng gỗ có chứng chỉ được khai thác từ khu vực rừng được quản lý bền vữngthì nguồn gỗ chứng chỉ nhập khẩu lại có giá khá cao.
Theo Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh (HaWa), hiện đa sốcác doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ đều đã sử dụng nguồn gỗ hợp pháp nhậpkhẩu. Tuy nhiên, để giảm giá thành và tiết kiệm chi phí sản xuất, một số doanhnghiệp vẫn lựa chọn phương án sử dụng gỗ chưa đạt chứng chỉ rừng, bao gồm cả gỗđược khai thác từ rừng tự nhiên trong nước và gỗ nhập khẩu có nguồn gốc từ rừngtự nhiên được nhập khẩu chủ yếu từ các nước lân cận nhưng tính pháp lý của gỗnhập từ nguồn này thường không rõ ràng.
Điều này không chỉ làm thay đổi cơ cấucủa rừng tự nhiên mà còn khiến việc tiếp cận với các thị trường xuất khẩu yêucầu gỗ có nguồn gốc hợp pháp và gỗ đạt chứng chỉ sẽ ngày càng khó khăn và bị thuhẹp. Điều đáng nói là sản lượng lớn gỗ tại thị trường trong nước chưa sử dụngđược do yêu cầu khắt khe của các nhà nhập khẩu đồ gỗ. Do đó vai trò của việcquản lý rừng bền vững rất quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Nhằm giảm sức ép lên tài nguyên rừng tự nhiên, việc cần thiết phải pháttriển nguồn nguyên liệu bền vững, Chính phủ đã có nhiều hạn chế việc khai thácrừng tự nhiên và bắt buộc các chủ rừng phải áp dụng phương pháp quản lý rừng bềnvững.
Tại hội thảo “Thiết kế và phát triển sản phẩm bền vững” do HaWa tổ chứcmới đây tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Heiko Wormer – Cố vấn kỹ thuật chươngtrình Quản lý rừng bền vững lâm nghiệp Việt – Đức cho biết, từ 2006 chương trìnhđã phối hợp với một số doanh nghiệp để triển khai phương pháp quản lý rừng bềnvững tại Việt Nam trên 3 phương diện: môi trường, kinh tế và xã hội. Tháng8/2011 chương trình lâm nghiệp Việt-Đức đã thành công trong việc hỗ trợ doanhnghiệp Đăk Tô (Kon Tum) đạt chứng chỉ FSC cho gỗ có kiểm soát đầu tiên tại ViệtNam. Trong tháng 3/2012 chương trình cũng phối hợp để hỗ trợ lâm trường TrườngSơn (Quảng Bình) nhận chứng chỉ FSC. Chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) đãđược công nhận trên toàn thế giới, khi có được chứng nhận này các doanh nghiệpsẽ dễ dàng tiếp cận với các thị trường xuất khẩu.
Mặt khác, chúng ta có thể chủ động nguồn cung nguyên liệu gỗ dài hạn đồngthời nâng cao hình ảnh của chủ rừng và khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp.Hiện tại, lâm nghiệp Đăk Tô khai thác 5.000-6.000m 3 gỗ tròn/năm, lâm trườngTrường Sơn (Quảng Bình) khai thác 5.500 m3 gỗ tròn/năm, trong tương lai, cácdoanh nghiệp Việt Nam không cần nhập khẩu từ gỗ nước ngoài nữa.
Sử dụng gỗ ít được biết đến
Việt Nam còn sở hữu trữ lượng lớn các loại gỗ ít được biết đến nhưng do íthay chưa được khai thác nhiều trong rừng tự nhiên và cũng chưa biết đến trên thịtrường thế giới nên nguồn sử dụng vẫn còn hạn chế. Ngoài ra, những loại gỗ nàyít được biết đến là do thị trường truyền thống ưa chuộng những loại gỗ có giátrị thương phẩm cao; doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa hiểu nhiều về chínhchất cơ lý, cơ học của các loại gỗ này. Hơn nữa, một số loại gỗ có tính chất khóchế biến, phải áp dụng kỹ thuật sấy đặc biệt…
Các chuyên gia cho rằng, cần quảng bá các loại gỗ ít được biết đến để giảmviệc khai thác quá mức một vài loài gỗ thương mại có giá trị cao, đồng thời sẽgiúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn gỗ hợp pháp trong nước rẻ hơn, có chứng nhậnnguồn gốc, sản phẩm xanh. Khi những loại gỗ ít được biết được thị trường chấpnhận thì không chỉ giá trị gỗ cao mà giá trị rừng cũng sẽ được nâng lên, từ đócác chủ rừng sẽ có nhiều lợi nhuận để tái đầu tư lại cho trồng rừng và áp dụngquản lý rừng bền vững. Ngoài ra, nếu chúng ta sử dụng loại gỗ ít được biết đếncũng sẽ làm giảm gánh nặng nhập khẩu của các doanh nghiệp, hạn chế sử dụng nhữngloại gỗ không rõ nguồn gốc trong rừng tự nhiên từ các nước lân cận.
Hiện có 18 loại gỗ ít được biết đến đã được chọn (mít nài, thông nàng,kơnia, dẻ đỏ, bời lông vàng, chò xót, cóc đá…) và phát hiện những tính năng ưuviệt của từng loại sau khi lựa chọn được thử nghiệm các tính chất kỹ thuật, cơhọc, độ cong, vênh, thử nghiệm tính chất gia công chế biến gỗ như cưa, bào, chànhẵn... Ông Heiko Wormer cho rằng, khi kết hợp với các doanh nghiệp trong cácthử nghiệm này thì phản hồi của các doanh nghiệp sản xuất rất tích cực đối vớicác loại gỗ mới này và cũng có ý định đặt hàng dài hạn, hi vọng trong thời giantới các sản phẩm này sẽ được thị trường nội địa chấp nhận. Trong 18 loài ít đượcbiết đến thì loại cóc đá trữ lượng vẫn còn nhiều, đây là loại gỗ tốt có thể thaythế nhiều loại gỗ khác sau này, đã có chứng chỉ gỗ kiểm soát FSC và ứng dụngchuỗi hành trình sản phẩm COC có thể sử dụng sản phẩm này để sản xuất đi châuÂu. Do đó, trong thời gian tới, thách thức là làm sao khuyến khích, quảng bá đểnhững loại gỗ ít được biết đến được khai thác nhiều hơn.
Thiết kế riêng cho thị trường nội địa
Bên cạnh thị trường xuất khẩu thì thói quen và thị hiếu của người Việt Namvẫn sử dụng các sản phẩm đồ gỗ, tuy nhiên, Việt Nam thường xuất khẩu sản phẩm ranước ngoài nhưng không có thiết kế riêng cho thị trường trong nước. Sản xuấtđược những sản phẩm do chính mình thiết kế luôn là mục tiêu của sự phát triểnchủ động, bền vững của các doanh nghiệp. Tuy vậy, lâu nay việc thiết kế sản phẩmlà một trong những “lỗ hổng” của các doanh nghiệp.
Theo bà Nguyễn Thị Đằng Loan – Giám đốc chuỗi bán lẻ Nhà Xinh, rõ ràng thịhiếu của người Việt vẫn là đồ gỗ, hiện nay xu hướng thiết kế những sản phẩm từgỗ được quản lý và phát triển bền vững có nhiều khả năng thành công khi đưa vàothị trường nội địa. Các mẫu sản phẩm được các nhà thiết kế và doanh nghiệp sảnxuất, về tính thẩm mỹ và công năng sử dụng người tiêu dùng rất hài lòng nhưngcái khó khăn nhất hiện nay là khâu sản xuất đại trà, rất cần thiết để quyết địnhsự thành công của sản phẩm.
Ông Trần Thiên – Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thanh Hòa cho biết,việc thiết kế sản phẩm bền vững cho thị trường xuất khẩu đã nói rất nhiều, đãđến lúc phải nghĩ đến thị trường nội địa. Để phát triển bền vững sản phẩm chothị trường nội địa phải đi theo xu hướng chung của thế giới hay xu hướng sử dụngnhiều trong nước. Hiện thế giới ngày càng sử dụng nhiều sản phẩm làm từ gỗ tràmvì giá rẻ, chất lượng sản phẩm tốt. Và đây là nguồn gỗ được đánh giá bền vữngnhất hiện nay ở Việt Nam, có thể đáp ứng 70% nhu cầu, và với tốc độ phát triểntrong tương lai gần đây sẽ là nguồn cung cấp gỗ lớn nhất của nước ta. Hiện tạiViệt Nam có 3 cánh rừng tràm được công nhận chứng chỉ FSC (Bình Định: cung cấp10.000 m3 gỗ/năm, Quảng Trị: cung cấp 5.000-7.000 m3 /năm, nhà máy giấy BãiBằng mỗi năm cung cấp 10.000 m3 /năm).
Ông Thiên nhấn mạnh, Việt Nam đang sở hữu diện tích tràm khá lớn, và thựctế tràm là nguyên liệu có chất lượng tốt, độ bền dẻo cao, được thế giới đánh giácao và dùng làm nguyên liệu chính cho đồ trang trí ngoài trời nhưng việc thiếtkế sản phẩm và màu sắc khi đưa ra thị trường nội địa vẫn chưa được đánh giá cao,bởi tâm lý của người tiêu dùng là “ngưỡng” khó vượt qua nhất bởi người tiêu dùngViệt Nam rất quan trọng màu sắc và thiết kế… Theo bà Đằng Loan, gỗ tràm là mộtloại gỗ đang có rất nhiều tại thị trường Việt Nam nhưng để đưa sản phẩm đồ nộithất có sử dụng gỗ tràm đến với người tiêu dùng cần có thời gian. Các nhà phânphối và doanh nghiệp hãy kiên nhẫn trong quá trình đưa sản phẩm mới vào thịtrường./.