Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã có kiến nghị với các tỉnh vùng Tây Nguyên cần rà soát lại các quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ, kiên quyết loại bỏ các công trình, dự án hiệu quả kinh tế thấp, ảnh hưởng nhiều đến tài nguyên rừng, đất sản xuất của đồng bào các dân tộc trên địa bàn.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đã phối hợp với Bộ Công Thương triển khai chuyên đề rà soát, đánh giá lại quy hoạch phát triển các công trình thủy điện gắn với việc sử dụng đất đai, tài nguyên, giữ gìn môi trường sinh thái, bảo đảm không gian sinh sống của đồng bào các dân tộc ở các vùng dự án ở khu vực Tây Nguyên.
Trước mắt, tỉnh Đắk Lắk đã chấm dứt chủ trương đầu tư 7 dự án thủy điện nhỏ như thủy điện sông Hin 3, Ea Sol 2, Ea PPuch 1, Krông Năng 4... Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đề nghị các bộ, ngành, các địa phương, đơn vị liên quan nhanh chóng giải quyết những tồn đọng về đền bù, tái định cư, kiến nghị sớm ban hành quy định về dòng chảy tối thiểu hạ lưu trong mùa kiệt làm căn cứ để kiểm soát việc vận hành, xả nước của các nhà máy thủy điện.
Các ngành chức năng sớm quy hoạch sử dụng nguồn nước hạ lưu các hồ chứa thủy điện làm căn cứ để điều tiết việc xả nước phục vụ sản xuất, đời sống của đồng bào các dân tộc, ban hành quy định về diện tích đất, rừng tối đa cho 1 MW công suất lắp máy nhằm làm căn cứ cho việc rà soát quy hoạch thủy điện.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng kiến nghị với các ngành chức năng xác định lại tỷ lệ phân chia thuế VAT giữa các địa phương theo số dân bị ảnh hưởng, phí dịch vụ môi trường rừng theo diện tích rừng đầu nguồn nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các địa phương trong khu vực Tây Nguyên.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, hiện nay, trên các hệ thống sông chính của Tây Nguyên như sông Ba, Sê San, Sêrêpốk, Đồng Nai có đến 287 dự án thủy điện, với tổng công suất 6.991,8 MW, gồm 43 dự án (5.528,7 MW) thuộc quy hoạch bậc thang thủy điện trên dòng chính và 244 dự án (1.463 MW) thuộc quy hoạch thủy điện nhỏ trên sông, suối nhánh; trong đó, các doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng đưa vào vận hành phát điện 84 dự án (4.678,3 MW), đang xây dựng 50 dự án (1.021,9 MW) phấn đấu hoàn thành từ nay đến năm 2015 và đang nghiên cứu đầu tư 87 dự án (1.000,5 MW), còn lại 66 dự án thủy điện nhỏ (201,2 MW) chưa cho phép đầu tư.
Cũng theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, việc phát triển thủy điện trên địa bàn Tây Nguyên đã có những tác động tiêu cực đến vấn đề môi trường sinh thái cũng như có nhiều bất cập đến xã hội, nhất là đụng chạm đến vấn đề đất đai, việc làm, đời sống của nhân dân nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trong các vùng dự án.Hiện nay, nhiều công trình thủy điện lớn và vừa như Plei Krông (Kon Tum), An Khê-Kanak (Gia Lai), Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Sêrêpốk 4... vẫn chưa giải quyết dứt điểm công tác đền bù, tái định cư cho đồng bào các dân tộc. Chỉ riêng công trình thủy điện Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 còn nợ tiền đền bù của các hộ dân trên 22 tỷ đồng.
Các công trình thủy điện còn gây nên nhiều tác động xấu về môi trường, xã hội như việc chuyển dòng để tăng hiệu suất phát điện của công trình thủy điện An Khê-Kanak, Đạ Nhim, Thượng Kon Tum gây nên thiếu nước cho sản xuất và đời sống cho đồng bào các dân tộc vùng hạ lưu.
Một số công trình thủy điện chưa phối hợp tốt với các địa phương xây dựng vận hành hợp lý cũng gây khó khăn cho khu vực vùng hạ lưu như Buôn Tua Srah (Đắk Nông), Sêrêpốk 4 (Đắk Lắk). Nghiêm trọng hơn, nhiều công trình thủy điện trên địa bàn Tây Nguyên đã làm ảnh hưởng khá lớn đến tài nguyên đất, rừng, tập quán sản xuất, sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số./.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đã phối hợp với Bộ Công Thương triển khai chuyên đề rà soát, đánh giá lại quy hoạch phát triển các công trình thủy điện gắn với việc sử dụng đất đai, tài nguyên, giữ gìn môi trường sinh thái, bảo đảm không gian sinh sống của đồng bào các dân tộc ở các vùng dự án ở khu vực Tây Nguyên.
Trước mắt, tỉnh Đắk Lắk đã chấm dứt chủ trương đầu tư 7 dự án thủy điện nhỏ như thủy điện sông Hin 3, Ea Sol 2, Ea PPuch 1, Krông Năng 4... Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đề nghị các bộ, ngành, các địa phương, đơn vị liên quan nhanh chóng giải quyết những tồn đọng về đền bù, tái định cư, kiến nghị sớm ban hành quy định về dòng chảy tối thiểu hạ lưu trong mùa kiệt làm căn cứ để kiểm soát việc vận hành, xả nước của các nhà máy thủy điện.
Các ngành chức năng sớm quy hoạch sử dụng nguồn nước hạ lưu các hồ chứa thủy điện làm căn cứ để điều tiết việc xả nước phục vụ sản xuất, đời sống của đồng bào các dân tộc, ban hành quy định về diện tích đất, rừng tối đa cho 1 MW công suất lắp máy nhằm làm căn cứ cho việc rà soát quy hoạch thủy điện.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng kiến nghị với các ngành chức năng xác định lại tỷ lệ phân chia thuế VAT giữa các địa phương theo số dân bị ảnh hưởng, phí dịch vụ môi trường rừng theo diện tích rừng đầu nguồn nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các địa phương trong khu vực Tây Nguyên.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, hiện nay, trên các hệ thống sông chính của Tây Nguyên như sông Ba, Sê San, Sêrêpốk, Đồng Nai có đến 287 dự án thủy điện, với tổng công suất 6.991,8 MW, gồm 43 dự án (5.528,7 MW) thuộc quy hoạch bậc thang thủy điện trên dòng chính và 244 dự án (1.463 MW) thuộc quy hoạch thủy điện nhỏ trên sông, suối nhánh; trong đó, các doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng đưa vào vận hành phát điện 84 dự án (4.678,3 MW), đang xây dựng 50 dự án (1.021,9 MW) phấn đấu hoàn thành từ nay đến năm 2015 và đang nghiên cứu đầu tư 87 dự án (1.000,5 MW), còn lại 66 dự án thủy điện nhỏ (201,2 MW) chưa cho phép đầu tư.
Cũng theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, việc phát triển thủy điện trên địa bàn Tây Nguyên đã có những tác động tiêu cực đến vấn đề môi trường sinh thái cũng như có nhiều bất cập đến xã hội, nhất là đụng chạm đến vấn đề đất đai, việc làm, đời sống của nhân dân nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trong các vùng dự án.Hiện nay, nhiều công trình thủy điện lớn và vừa như Plei Krông (Kon Tum), An Khê-Kanak (Gia Lai), Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Sêrêpốk 4... vẫn chưa giải quyết dứt điểm công tác đền bù, tái định cư cho đồng bào các dân tộc. Chỉ riêng công trình thủy điện Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 còn nợ tiền đền bù của các hộ dân trên 22 tỷ đồng.
Các công trình thủy điện còn gây nên nhiều tác động xấu về môi trường, xã hội như việc chuyển dòng để tăng hiệu suất phát điện của công trình thủy điện An Khê-Kanak, Đạ Nhim, Thượng Kon Tum gây nên thiếu nước cho sản xuất và đời sống cho đồng bào các dân tộc vùng hạ lưu.
Một số công trình thủy điện chưa phối hợp tốt với các địa phương xây dựng vận hành hợp lý cũng gây khó khăn cho khu vực vùng hạ lưu như Buôn Tua Srah (Đắk Nông), Sêrêpốk 4 (Đắk Lắk). Nghiêm trọng hơn, nhiều công trình thủy điện trên địa bàn Tây Nguyên đã làm ảnh hưởng khá lớn đến tài nguyên đất, rừng, tập quán sản xuất, sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số./.
Quang Huy (TTXVN)