Từ đầu nay đến nay, giá than thế giới trung bình tăng mạnh 110% so với cùng kỳ năm 2020 và 75% so với đầu năm, lập kỷ lục cao nhất trong lịch sử. Trong nước, chính sách giá than chịu sự quản lý chặt chẽ nên hầu hết doanh nghiệp ngành than nội địa chưa được hưởng lợi từ "cơn sốt" giá hiện tại.
Tuy nhiên theo Báo cáo phân tích từ Công ty Chứng khoán SSI, các doanh nghiệp khai thác than đang niêm yết trên thị trường chứng khoán khả năng bắt đầu được hưởng lợi từ việc tăng giá này khi đàm phán giá bán mới cho Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) trong năm 2022.
Chính sách giá điều tiết
Báo cáo cho biết giá than nội địa chưa đồng pha với giá than thế giới là do chính sách quản lý giá ở Việt Nam, quy định chỉ có hai đơn vị được phép khai thác và bán than trong nước là Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty Đông Bắc.
Thời gian qua, giá than trong nước thường chỉ điều chỉnh khi có mức tăng lớn về chi phí sản xuất và thường diễn ra 3-4 năm/lần. Trên nền tảng đó, kể từ đầu năm đến nay - giá than trong nước điều chỉnh không nhiều. Cụ thể, giá than cho sản xuất ximăng điều chỉnh tăng 9% trong tháng Tám, trong khi giá than cho nhiệt điện vẫn giữ nguyên, để giảm áp lực cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi Chính phủ đang yêu cầu hỗ trợ giá điện trong thời điểm dịch bệnh COVID-19. Hiện, nhu cầu than trong nước chủ yếu phục vụ cho nhiệt điện (chiếm 72% nhu cầu trong nước).
[Tìm cơ hội trên thị trường chứng khoán những tháng cuối năm]
Trên cơ sở đó, nhóm phân tích của SSI ước tính giá than trong cả năm 2021 sẽ chỉ tăng nhẹ 4%/năm. Số liệu từ báo cáo, tổng doanh thu và lợi của các doanh nghiệp khai thác than niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nửa đầu của năm lần lượt đạt 10.600 tỷ đồng (giảm 1,7%) và 115 tỷ đồng (giảm 8,2% YoY). Bên cạnh đó, nhóm phân tích dự báo về nửa cuối của năm, nhóm doanh nghiệp than vẫn chưa ghi nhận triển vọng tăng giá bán hay đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ trong nước. Song, báo cáo nhấn mạnh ngành than sẽ chịu tác động trực tiếp từ cơn sốt than trong thời gian tới.
Chi phí sản xuất gia tăng
Phân tích về thực trạng sản xuất và tiêu thụ than trong nước, báo cáo chỉ ra tổng doanh thu của đơn vị sản xuất lớn nhất là Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam trong chín tháng đạt 94.600 tỷ đồng (tăng 2,1% /năm) và sản lượng than tiêu thụ chỉ đạt 29,6 triệu tấn (giảm 1,3%/năm) do tình hình giãn cách xã hội kéo dài. Cùng với đó, huy động nhiệt điện giảm sút vì sản lượng điện tái tạo tăng mạnh.
Trong khi đó, chi phí sản xuất than trong nước đang tăng cao do giá than thế giới leo thang. Hiện tại, hai đơn vị sản xuất trong nước là TKV và Đông Bắc phải nhập khẩu khoảng 20%-25% lượng than từ Australia và Indonesia để trộn với than trong nước đáp ứng nhu cầu nội địa. Mặt khác, chi phí nhiên liệu cũng tăng mạnh khiến việc khai thác than nội địa trở nên đắt đỏ hơn.
Vì vậy sang năm 2022, nhóm phân tích của SSI cho rằng ngành than sẽ có nhiều dấu hiệu tích cực khi giá than trong nước dự kiến điều chỉnh từ 10%-15% do chi phí sản xuất than của TKV và Đông Bắc đã tăng cao trong năm 2021 và nhu cầu từ nhiệt điện bắt đầu phục hồi trở lại khi giãn cách xã hội được nới lỏng.
Trên cơ sở đó các doanh nghiệp khai thác than đang niêm yết cũng sẽ bắt đầu được hưởng lợi khi đàm phán lại giá bán mới cho TKV trong năm 2022. Tuy nhiên, nhóm phân tích cũng lưu ý rằng giá than khai thác ở Việt Nam đang đắt hơn nhiều so với thế giới ở trong giai đoạn bình thường (năm 2019 giá than Việt Nam đắt hơn 18% so với giá than nhập khẩu) nên dư địa tăng giá trong nước không còn nhiều, nhất là khi giá than thế giới có khả năng hạ nhiệt nhanh trong năm 2022.
Áp lực lên các ngành sử dụng than nhập khẩu
Trái với sự kỳ vọng việc tăng giá than nội địa tạo triển vọng cho nhóm cổ phiếu ngành than, báo cáo này cảnh báo sẽ có những áp lực lên nhóm ngành sản xuất sử dụng than nhập khẩu.
Trên thực tế, giá than nhập khẩu của Việt Nam đương nhiên sẽ phải tăng đồng pha với giá than thế giới, đạt mức tăng trung bình 83%/năm trong Chín tháng của năm.
Theo đó, SSI dự báo giá than nhập khẩu tăng mạnh sẽ ảnh hưởng dến các ngành công nghiệp nội địa, như nhiệt điện, xi măng, luyện kim và phân bón. Cụ thể, việc giá than thế giới tăng đột biến so với than trong nước, các ngành có tỷ lệ than nhập khẩu/tổng khối lượng than sử dụng trong ngành cao như xi măng (66%), sắt thép (88%), phân bón (74%) sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Riêng, ngành nhiệt điện ít bị ảnh hưởng hơn do tỷ lệ than nhập chiếm khoảng 24%/tổng than sử dụng đồng thời được Chính phủ ưu tiên nguồn than trong nước cho sản xuất./.