Dịch vụ dầu khí: “Thắng” sân nhà cũng mướt mồ hôi!

Mặc dù chiếm 50% tỷ trọng nhưng một doanh nghiệp tầm cỡ nhất của Việt Nam cũng chỉ kiếm được 195/690 triệu USD; phần còn lại của “chiếc bánh” dịch vụ khoan dầu khí năm 2010 đã “rơi” vào túi các nhà thầu nước ngoài.

Thực tế này cho thấy môi trường cạnh tranh đã rất khốc liệt, ngay cả khi “cánh cửa” WTO với thị trường dịch vụ vẫn còn mở hẹp!
Mặc dù chiếm 50% tỷ trọng nhưng một doanh nghiệp tầm cỡ nhất của Việt Nam cũngchỉ kiếm được 195/690 triệu USD; phần còn lại của “chiếc bánh” dịch vụ khoan dầukhí năm 2010 đã “rơi” vào túi các nhà thầu nước ngoài.

Thực tế này cho thấy cạnh tranh đã rất khốc liệt ngay cả khi “cánh cửa” WTOvới thị trường dịch vụ vẫn còn mở hẹp!

Mấu chốt vẫn là năng lực

Được xếp vào hàng doanh nghiệp lớn về khoan dầu khí nhưng Tổng Công ty Khoanvà Dịch vụ Khoan dầu khí (PVD) cũng mới chỉ có sáu trên 17 giàn khoan đang hoạtđộng tại Việt Nam; trong đó số giàn khoan PVD tự đầu tư chỉ có ba giàn, còn lạivẫn phải thuê của nước ngoài.

Tương tự như vậy, trong lĩnh vực dịch vụ kho nổi chứa xuất dầu thô (không kểLiên doanh dầu khí Vietsovpetro), hai doanh nghiệp hàng đầu khác là Tổng công tyDịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC) và Tổng công ty Vận tải Dầu khí (PV Trans) cũngmới sở hữu và đồng sở hữu tám kho đang hoạt động tại Việt Nam.

Còn trong lĩnh vực dịch vụ tàu cho thuê, cho dù đã thống lĩnh tới 90% thịtrường nhưng năng lực thực sự của PTSC vẫn hạn chế bởi chỉ sở hữu 22 tàu trongkhi vẫn phải thuê lại từ 25-30 tàu. Vì vậy, gần như độc quyền thị trường tàudịch vụ nhưng tỷ trọng giá trị gia tăng trong trong lĩnh vực này của PTSC chỉ là30%.

Không chỉ khó cạnh tranh về tiềm lực cơ sở vật chất phương tiện, các doanhnghiệp dịch vụ dầu khí Việt Nam cũng khó lòng cạnh tranh được giá cả với cácdoanh nghiệp nước ngoài. Tổng Giám đốc PVD Phạm Tiến Dũng cho biết hiện nhiềunhà thầu quốc tế có giàn khoan công nghệ lạc hậu được đóng cách đây khoảng 25năm đang đổ xổ vào thị trường có tiêu chuẩn kỹ thuật chưa khắt khe như Việt Nam.

Với quy định của Luật Đấu thầu hiện hành, PVD gặp bất lợi trong cạnh tranhbởi ngay cả khi chấp nhận xuống mức giá gần như không có lãi là 110.000USD/ngày, vẫn cao hơn tới 30.000 USD/ngày so với mức giá các nhà thầu ngoạichào. Khó khăn càng tăng thêm bởi với các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành của ViệtNam, các đơn vị sử dụng dịch vụ khó có thể đánh giá hết được chất lượng dịch vụgiàn khoan, hiệu suất sử dụng và độ an toàn của giàn khoan.

Nhìn nhận về những hạn chế này, Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam(PVN) Đinh La Thăng cho hay ba giàn khoan của PVD tự đầu tư có công nghệ hiệnđại nên dù giá dịch vụ cao hơn bên ngoài nhưng dễ dàng cạnh tranh vì hiệu suấtsử dụng cũng rất cao. Còn các giàn khoan đi thuê, khó cạnh tranh hơn bởi côngnghệ và hiệu suất hạn chế.

Không thể trông chờ vào độc quyền

Tại hội nghị sơ kết hai năm thực hiện Nghị quyết 233 của Tập đoàn Dầu khíQuốc gia Việt Nam (PVN) về phát huy nội lực, ưu tiên sử dụng dịch vụ dầu khítrong ngành, tổ chức mới đây, trước các kiến nghị của nhiều đơn vị cung cấp yêucầu chính thức hóa “quyền ép” doanh nghiệp trong ngành sử dụng dịch vụ “của nhàtrồng được,” Chủ tịch PVN Đinh La Thăng đã khẳng định: Nghị quyết 233 chỉ là chủtrương của PVN để đối phó với bối cảnh suy giảm kinh tế của đất nước. Vì vậy,các đơn vị không thể trông chờ vào việc hình thành một văn bản pháp lý quy địnhsự độc quyền cung cấp các dịch vụ trong ngành.

“Nghị quyết 233 không phải là tấmvải đỏ che đậy sự yếu kém,” ông Thăng nhấn mạnh.

Về phía đơn vị sử dụng dịch vụ, ông Ngô Hữu Hải, Tổng Giám đốc Công ty Liêndoanh Hoàng Long-Hoàn Vũ nhìn nhận rằng với Nghị quyết 233, một số công ty chưatập trung đầu tư vào nhân lực, chất lượng dịch vụ; thậm chí còn ỷ lại vào sự độcquyền trên sân nhà. PVD kiểu gì cũng thắng thầu nếu các giàn khoan của PVD đều“ngon” như PVD1, có hiệu suất cao và đảm bảo an toàn chất lượng và giúp HoàngLong-Hoàn Vũ tiết kiệm 35 triệu USD từ việc kết thúc hợp đồng sớm hơn hai tháng.

Ông Hải khẳng định rằng cho dù rất thiện chí với các “anh em trong nhà” nhưngông cũng không thể buộc đối tác nước ngoài trong liên doanh chấp nhận nếu chấtlượng và giá cả dịch vụ “trong nhà” này không đáp ứng yêu cầu.

Chủ động nâng cao sức cạnh tranh

Với mục tiêu doanh thu từ dịch vụ dầu khí sẽ chiếm khoảng 35% tổng doanh thutoàn Tập đoàn vào năm 2015, PVN đang triển khai quyết liệt, đồng bộ 10 nhóm giảipháp; trong đó tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa đơn vị cung cấp và sửdụng dịch vụ; thực hiện tái cơ cấu lại các nguồn lực theo hướng tập trung chuyênsâu theo ngành nghề chính nhằm tránh đầu tư chồng chéo, lãng phí và nâng caohiệu quả sử dụng dịch vụ.

Cùng với sự nỗ lực của từng doanh nghiệp, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càngkhốc liệt, doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó nâng cao được sức cạnh tranh với doanhnghiệp ngoại nếu không có sự hậu thuẫn thích hợp của Nhà nước.

Đại diện PVD cho hay theo quy định của Luật Dầu khí, Luật Đầu tư nước ngoài,các công ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam chỉ phảichịu thuế 10% của 50% doanh thu. Vì vậy, cho dù không được cấu trừ thuế đầu vàonhưng trên thực tế các doanh nghiệp này chỉ phải chịu 5% thuế VAT đầu ra. Trongkhi đó, một doanh nghiệp nội như PVD được trừ thuế đầu vào nhưng lại phải chịuthuế VAT 10% trên tổng đầu ra. Tính chi ly, PVD vẫn phải trả 8,75%, thiệt hơndoanh nghiệp “ngoại” khoảng 3,75%.

Thêm vào đó, trong bối cảnh mở cửa hội nhập, Việt Nam vẫn chưa tận dụng hếtcác lợi thế được hưởng theo các cam kết trong WTO để nâng cao sức cạnh tranh. Cụthể, các nhà làm Luật hoàn toàn có quyền ban hành các quy định hạn chế đối với“Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng” (CSS) cho dù các hạn chế này không hề viphạm cam kết WTO.

Với cam kết về dịch vụ khai thác mỏ (CPC883), Việt Nam có toàn quyền dành cácdịch vụ gồm cung ứng vật tư, thiết bị, hóa phẩm cho giàn khoan xa bờ, dịch vụcăn cứ, dịch vụ tàu thuyền cho phía Việt Nam. Tuy nhiên, do Việt Nam vẫn bỏ ngỏcác “cửa chặn” cần thiết nên các nhà thầu nước ngoài có thể “thoải mái” mang laođộng sang Việt Nam làm việc như hiện nay.

Trong khi đó, các nước xung quanh như Malaysia, Indonesia, Algeria... đều cóchính sách bảo hộ quyền sử dụng lao động trong lĩnh vực dịch vụ dầu khí; trongđó không cho phép sử dụng lao động nước ngoài, chỉ cho phép sử dụng rất ít nhânsự cao cấp.

Vì vậy, PVD buộc phải thuê phần lớn lao động nước sở tại khi làm việc tạigiàn khoan ở Algeria; PTSC phải thông qua Petronas Licence cung cấp dịch vụ khihoạt động tại Malaysia. Đây chính là những bất lợi không đáng có cho doanhnghiệp Việt Nam trong mở cửa cạnh tranh, ông Phạm Tiến Dũng chia sẻ./.

Nguyễn Kim Anh (Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục