Trong đó tập thơ thứ tư chủ đề “Thơ và Người Lính” có trường ca tựa đề “Bến cảng giữa rừng” ông viết về những người lính đoàn tàu không số, vềnhững người lính của trung đoàn 962 và tấm lòng kiên trung của quân dân Đất MũiCà Mau đã bí mật, tiếp nhận, vận chuyển vũ khí cho chiến trường Nam Bộ.
Kỷ niệm 50 năm đường Hồ Chí Minh trên biển, cả nước tự hào, xúc động nhớvề Đoàn tàu đã đi vào huyền thoại, riêng người cựu chiến binh của Đoàn tàu khôngsố Đại tá Khưu Ngọc Bảy không có ngày ngơi nghỉ.
Ông liên tục được mời họp mặt truyền thống, giao lưu tuyền hình trực tiếptại Cần Thơ, dự lễ kỷ niệm tại thành phố Hải Phòng , tham dự khách mời Cầutruyền hình kỷ niệm niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển ( 23/10/1961 -23/10/2011) vào tối 23/10 tại Cà mau.
Dành chút thời gian ít ỏi giữa hai chuyến đi, Đại tá Khưu Ngọc Bảy nói vềsự kiện cảm động thôi thúc nhà thơ viết nên trường ca “Bến cảng giữa rừng."
Đó là khi chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu thân 1968, bốncon tàu mang ký hiệu 43, 56, 235, 165 của Lữ đoàn 125 được lệnh xuất phát, chởhàng vào Nam, trong đó có tàu 165 chở hàng về bến Vàm Lũng (Cà Mau).
Tàu do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm cùng 17 cán bộ, thủ thủy trên tàu.Như những chuyến đi trước, tàu đi qua Hoàng Sa, Trường Sa, xuôi về phía Nam theodòng tàu buôn nước ngoài trên vùng biển hải phận quốc tế, lúc này tàu đã bị địchtheo dõi.
Đến vùng biển Cà Mau, tàu chuyển hướng vào bến, khi còn cách cửa biển BồĐề 20 hải lý thì bị tàu địch bao vây. Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm bình tĩnh,mưu trí cùng anh em quyết tâm vượt qua vòng phong tỏa của địch.
Lúc này, thông tin giữa tàu và Sở chỉ huy và bến vẫn giữ liên lạc tốt. Mọiphương án đón tàu ở bến được chuẩn bị chu đáo, kể cả trong “trường hợp xấunhất,” bến sẵn sàng “chia lửa” với tàu.
Sau đó tình hình xấu đi, máy bay địch lượn nhiều, chúng báo động và tàu165 đã bị rất đông tàu giặc bao vây giữa biển khơi. Trên bờ, lúc này ai cũngngóng ra biển, ai cũng căng mắt lo âu...
Nhưng do chiến đấu không cân sức, biết không thể thoát được, thuyền trưởngxin lệnh cấp trên cho thủy tàu không để rơi vào tay giặc.
"Đó là vào đêm 29/2, rạng ngày 1/3/1968. Chừng hơn một giờ sáng, phíangoài khơi nhiều ánh lửa và đường đạn vạch lên trời... Chúng tôi thấy những tiachớp và một cột lửa lớn vọt lên kèm theo tiếng nổ lớn giữa biển khơi xa...
Chúng tôi được lệnh bám biển, trên bến vẫn huy vọng và chờ đợi có anh emrời tàu sớm còn sống, nhưng ngày hôm sau rồi hôm sau nữa anh em chia nhau đi dọctheo bờ biển tìm đón, hoặc thi thể anh em thủy thủ hoặc một di tích nào đó trôidạt vào bờ, nhưng nhiều ngày qua vẫn không chút tâm hơi… Con tàu 165, thuyềntrưởng Nguyễn Chánh Tâm và 17 thủy thủ đoàn đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại,các anh đã hóa thân vào lòng biển mênh mông…
Chúng tôi ngồi trên bãi biển và chỉ biết khóc: 'Nước triều lên vàm Lũnglại dâng đầy/ Có con tàu chiều nay vĩnh viễn không về bến/ Anh ngồi khóc và anhlần tay nhẩm/ Chép vào lòng tên những bạn bè anh…'"
Trường ca gồm 3 chương nói về bối cảnh bến Cà Mau nhận nhiệm vụ trực tiếpnhận vũ khí; chương mở đường chuyển hàng đi tới những chiến trường và chươngcuối viết về tình cảm của quân dân bến Cà Mau với những anh hùng đã huy sinhtrên chiếc tàu 165.
Nhà thơ cho biết: "Trong hoàn cảnh đó, chúng tôi chỉ ghi lại cảm xúc khôngnghĩ là tác phẩm trọn vẹn: 'Anh đắp lên giữa rừng những nấm mộ vô danh? Trên bùnnhão viết tên đồng đội/ Trong vốc nước mặn tê đầu lưỡi/ Ngỡ có máu bạn bè chảyvề tận nơi đây.'"
Và đến khổ thơ cuối nhà thơ viết: “ Nếu anh còn qua hết cuộc chiến tranhnày/ Anh sẽ gói phù sa mang về khắp trong Nam, ngoài Bắc/ Những người ngả xuốngvì Tổ Quốc/ Chẳn thể nào vô danh.”
Và đúng như tâm nguyện nhà thơ Khưu Ngọc Bảy đã viết trong trường ca, naydù đã ở tuổi 75, sống trong hòa bình, cuộc sống thành đạt, hạnh phúc bên giađình nhưng ông vẫn không ngơi nghĩ, vẫn không quên dự tính và tổ chức đi thămđồng đội, thăm lại chiến trường xưa, vận động quyên góp lo đời sống, giúp xâydựng nhà tình nghĩa cho những đồng đội, viết tư liệu, làm thơ, tham dự họp mặt,hội thảo…
Ông vẫn đau đáu về nơi đã khắc sâu trong trái tim ông bao nhiêu tình cảm,gắn bó hy sinh cùng đồng đội, về những vùng quê một thời đạn bom nặng nghĩa,nặng tình không thể phai mờ: “Biển lại đầy và biển lại vơi/ Đất trôi lở rồi đấtbồi thêm bãi/ Đồng đội ơi! Rạch Gốc còn đợi đấy/ Dù đi đâu xin một chuyến quayvề!”...
Tiếp chuyện chúng tôi nhà thơ chiến sỹ Khưu Ngọc Bảy không nói về chuyệnlàm thơ mà nói nhiều đến điều làm ông trăn trở, đó là người ta nói nhiều, viếtnhiều về những chuyến đi của những đoàn tàu không số nhưng với ông thì cả 4 bếntiếp nhận vũ khí hàng hóa ( gồm bến Bà Rịa, bến Bến Tre, bến Trà Vinh, bến Càmau) như những tay chân trong cơ thể của con Đường Hồ Chí Minh trên biển khôngthể tách rời: “Mến yêu sao miền biển của ta/ Ngững Khai Long Rạch Gốc, Rạch Già/Đây Bồ Đề, Kiến Vàng, Vàm Lũng/ Những vàm sông chỡ ngập phù sa”...
Chỉ tính riêng bến Cà Mau trong hơn 14 năm chiến tranh ác liệt đã có tớihàng trăm thương binh, liệt sỹ. Chúng ta làm gì, lấy gì bù đấp cho khi còn cảngàn đồng đội, gia đình, thân nhân của họ hiện đang sống trong khó khăn ngaytrên mãnh đất họ đã từng hy sinh, bí mật bảo vệ an toàn tuyệt đối cho “Bến cảnggiữa rừng.”
Trong tổng số 4.294 tấn vũ khí tiếp nhận từ 76 chuyến tàu của cụm bến CàMau, thì riêng 2 bến Vàm Lũng, Kiến Vàng tiếp nhận 68 chuyến và tổ chức chuyểnvề tổng kho an toàn, góp phần đáng kể cho ngày toàn thắng, giải phóng hoàn toànmiền Nam thống nhất đất nước.
Theo đánh giá của một số bạn văn thân thiết, thơ của Khưu Ngọc Bảy lạ vềthi pháp, đẹp và giản dị về ngôn từ, rất giàu cảm xúc và hình tượng về con đườngvận tải vũ khí trên biển, đậm đà nhất là tình cảm gắn bó quân dân các bến bãi.
Thơ của ông là những xúc cảm thật xuất phát từ một cuộc đời từng trải vàtrái tim nồng nàn lòng yêu đất nước quê hương. Riêng về trường ca “Bến cảnggiữa rừng,” nhà Thơ Nguyễn Bá nhận xét: “Trường ca cách mạng mang đậm chấtsử thi vì nó được kết tập khí phách anh hùng và tình yêu dân tộc. Trên bản đồ CàMau mới, Vàm Lũng hầu như không còn, nhưng trong trái tim người trung đoàntrưởng trung đoàn 962 thì địa danh này là bến bãi của ý chí kiên cường, sángngời trí tuệ, vinh quang và anh hùng, là bến cảng của lòng quân dân Cà Mau thànhđồng Tổ quốc. Trường ca 'Bến cảng giữa rừng' và nhà thơ là máu thịt củanhau… cho người đọc cảm thụ được những bến bãi sâu thẳm trong tâm hồn người línhthủy.”
Thật vậy, những con tàu vượt trùng khơi vào Nam ra Bắc từng một thời nhưlà nhịp thở của đời nhà thơ chiến sỹ - Đại tá Khưu Ngọc Bảy, cho nên không riêngvề trường ca “Bến cảng giữa rừng” mà hầu hết thơ của ông đều mang hơihướng anh hùng ca và tình ca của người lính biển.
Và có lẽ, ở Nam Bộ, Khưu Ngọc Bảy là người duy nhất kể chuyện bằng thơ vềCon đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển. Nhà thơ góp phần làm cho sự kiệnlịch sử hào hùng của dân tộc trở nên có sức sống riêng đi vào lòng người và sốngmãi cùng nền thi ca cách mạng./.