Các kho hóa chất được xây dựng từ những năm1980 trở về trước, đã và đang xuống cấp trầm trọng và phần lớn nằm gần khu vựcdân cư.
Việc phòng ngừa, ngăn chặn tác hại do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưugây ra đối với sức khỏe cộng đồng, môi trường và phát triển kinh tế-xã hội đangtrở nên vô cùng cấp thiết.
Đặc biệt là ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nơi chiếmtrên 60% số điểm nằm trong danh mục 100 khu vực ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng dohóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu, thuộc một trong những nội dung của Chươngtrình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn2012-2015.
"Chung sống" với hóa chất độc hại
Theo nhận định của ông Trần Ngọc Đình, chuyên gia Cục Quản lý chất thải và Cảithiện môi trường-Tổng cục Môi trường Ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thựcvật tồn lưu đang là vấn đề môi trường nghiêm trọng.
Đây là những hợp chất hữu cơđộc hại đứng đầu danh sách 12 loại độc chất nguy hiểm, rất bền trong môi trườngnên rất khó phân hủy sinh học. Trong đó chủ yếu là các loại hóa chất thuộc nhómPOPs như DDT, 666, Lindan, Aldri...
Những hóa chất này có thể theo nước mưa ngấmsâu vào nguồn nước sinh hoạt, hoặc tiềm ẩn trong không khí, thức ăn, nước uống,là một trong những tác nhân gây ung thư điển hình.
Hiện tại 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được Tổng cục Môi trường đánh giá là nhữngđịa bàn trọng điểm về tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật, hầu hết đều là những khothuốc bảo vệ thực vật xây dựng trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.
Trong đó NghệAn có tới 268 điểm, có 189 điểm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải xửlý triệt để từ năm 2010 đến năm 2015; còn 79 điểm phải xử lý dứt điểm từ năm2016 đến năm 2025.
Tại Hà Tĩnh có 31 điểm tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật đều nằmtrong danh mục gây ô nhiễm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, theo Quyếtđịnh số 1946 của Thủ tướng Chính phủ cần được đầu tư xử lý.
Trong đợt khảo sát các điểm tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trên địa bàn tỉnh NghệAn và Hà Tĩnh do Tổng cục Môi trường tổ chức, chúng tôi đã được chứng kiến cảnhtượng “sống chung với hóa chất độc hại” của người dân địa phương.
Như nhận xétcủa ông Nguyễn Xuân Hải, 62 tuổi đang cư ngụ cách kho thuốc bảo vệ thực vật HònTrơ, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu (Nghệ An) chỉ khoảng 500 m: “Bầy tui biết thừalà nó độc hại nhưng ngửi mãi cũng quen mùi hóa chất, vì chẳng biết dời chuyển cảgia đình đi đâu ?”.
Ông Hải nguyên là 1 trong 4 lao động chuyên bốc vác hóa chấttại kho thuốc bảo vệ thực vật Hòn Trơ, trong số đó thì 3 người đã chết vì mắccăn bệnh ung thư còn ông bị bệnh hen suyễn hành hạ từ nhiều năm nay.
Còn tại khu vực kho thuốc bảo vệ thực vật xây dựng từ năm 1968 thuộc xã KhánhLộc, huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) thuộc điểm “ô nhiễm nghiêm trọng”, với hàm lượngLindan vượt 9,3 lần so với Quy chuẩn Việt Nam. Một ngôi trường Tiểu học gồm 500học sinh vẫn được xây dựng ngay trong vùng ô nhiễm.
Cô Hiệu trưởng Hoàng Thị ÁiKhanh: “Mỗi khi mưa xuống, nắng lên là mùi hóa chất bốc lên nồng nặc, Ban Giámhiệu chỉ biết nhắc thầy cô giáo phải đóng toàn bộ cửa sổ ”.
Có thể khẳng định 90% các điểm ô nhiễm do tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật gây ratại Nghệ An và Hà Tĩnh đều có dân cư sinh sống. Đa số diện tích đất bị ô nhiễmđang được sử dụng trồng cây lương thực, rau màu và chăn thả gia súc, gia cầm;đồng thời người dân ở những khu vực này cũng sử dụng nguồn nước giếng cho sinhhoạt hàng ngày, chỉ một số ít gia đình xây bể chứa nước mưa hoặc lọc nước giếngbằng các biện pháp qua sỏi, cát thông thường.
Cũng cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một báo cáo chính thức đánh giá về nhữnghậu quả do tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật gây ra đối với sức khỏe con người vàđộng, thực vật.
Vì vậy, người dân và cả chính quyền tại những điểm ô nhiễm vẫnkhông nhận thức được hết sự tác động nguy hại lâu dài của nó, nên tình trạng“sống chung với hóa chất độc hại” vẫn diễn ra như “chuyện thường ngày ở vùng ônhiễm”.
Lựa chọn giải pháp khắc phục
Chuyên gia Trần Ngọc Đình-người đã "bám trụ" nhiều năm suốt dọc dải đất MiềnTrung để điều tra, đánh giá về các điểm ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưucho biết việc xử lý các loại hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu còn lưu trữở trong kho tương đối đơn giản.
Song việc cải tạo và phục hồi các khu vực bị ônhiễm lại rất phức tạp và tốn kém. Chẳng hạn nếu như xử lý 1kg hóa chất tồn lưuchỉ cần 2 USD, song cần 20 USD để xử lý 1kg bị rò rỉ vào vùng đất bề mặt; 200USD xử lý 1kg bị thấm xuống tầng đất dưới.
Nhưng khi 1 kg hóa chất đã ngấm xuốngnguồn nước ngầm thì phải sử dụng tới 2.000 USD để xử lý. Cùng với kinh phí, thờigian để xử lý cũng tăng lên rất nhiều lần khi hóa chất đã phân tán ra môitrường.
Vấn đề nan giải nhất tại các điểm tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam, đólà các hóa chất này đã bị chôn lấp, rò rỉ, rơi vãi trong quá trình vận chuyển...không phù hợp tiêu chuẩn. Do đó, công việc quản lý môi trường tại những điểm nàysẽ phải tập trung vào nội dung cải tạo, xử lý triệt để phục hồi các khu vực bị ônhiễm để đưa hiện trạng của đất và nguồn nước ngầm trở về trạng thái ban đầu,nhưng hiệu quả đến đâu lại lệ thuộc vào mức độ đầu tư kinh phí cho công tác này.
Trong nhiều năm qua, nhờ huy động được từ nhiều nguồn kinh phí khác nhau, Tổngcục Môi trường và các địa phương đã phối hợp tổ chức tiêu hủy, xây hầm bê tôngkiên cố chôn lấp hàng trăm tấn hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu tại những điểm“nóng’ gây ô nhiễm môi trường.
Điển hình như việc khoanh vùng xử lý ô nhiễmthuốc bảo vệ thực vật tại khu Lùm Nghè, thôn Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện NamĐàn (Nghệ An). Năm 1970, nơi đây từng đặt Nhà máy sản xuất thuốc bảo vệ thựcvật.
Năm 2008, Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường đã lựa chọn giảipháp xây tường rào, đào mương thoát nước với đáy lót than bùn dẫn vào bể thanhoạt tính, đã cách ly khu vực ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật với khu vực xungquanh, mặt khác trồng cây bạch đàn phủ xanh toàn bộ diện tích ô nhiễm để cải tạođất.
Về xử lý ô nhiễm đối với nơi từng đặt kho thuốc bảo vệ thực vật nằm ngay trongkhu dân cư ở thôn Mậu II cũng thuộc xã Kim Liên, Cục Quản lý chất thải và Cảithiện môi trường đã tiến hành xây kè sâu 2m bao quanh diện tích đất ô nhiễm; xâybể hoạt tính gom nước mưa.
Đặc biệt, diện tích nền kho thuốc trước đây giờ đượctrồng cỏ Vetnơ, là loại thực vật có thân cứng và lá sắc nhọn trâu bò không dámăn, có khả năng hấp thụ và biến đổi được hóa chất độc hại trong đất, loài cỏ nàytự lụi tàn và tái sinh không cần chăm sóc.
So sánh về môi trường sống sau khi khu vực kho thuốc bảo vệ thực vật được xử lý,ông Phạm Trọng Xuân, một trong số 18 gia đình nằm trong diện tích ô nhiễm củathôn Mậu II khẳng định những ngày nắng nóng mùi thuốc trừ sâu không còn bốc lênkhó thở như trước đây, hiện giếng nước của 2 gia đình sau khi được cơ quan khoahọc xét nghiệm không còn bị nhiễm độc. “Tôi đã 80 tuổi nhưng thời gian gần đâythấy mình khỏe hẳn ra”, ông Xuân lạc quan nói.
Tuy vậy, theo đánh giá của Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường, côngtác khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường do tồn lưu hóa chất bảo vệ thựcvật vẫn còn nhiều nan giải, hiệu quả xử lý các điểm ô nhiễm trong những năm quavẫn còn rất khiếm tốn.
Do đó, biện pháp cần tiến hành ngay là tăng cường truyềnthông và nâng cao nhận thức của cộng đồng, nhất là cộng đồng dễ bị tổn thươngđang sống gần khu vực bị ô nhiễm. Họ phải được trang bị các kiến thức để chủđộng phòng tránh tác hại của ô nhiễm, do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật đốivới sức khỏe và sinh kế của mình.
Qua đó thay đổi hành vi như không đi vào khuvực bị nhiễm; thiết lập hàng rào ngăn trẻ em và cả gia súc, gia cầm; tránh dùngnước giếng đào, giếng khoan nông cho mục đích sinh hoạt...nhằm giảm nguy cơ phơinhiễm các chất ô nhiễm đến con người.
Để từng bước loại trừ ô nhiễm do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật gây ra đối vớicộng đồng, ngày 2/9/2012, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã ký Quyết định số1206, về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cảithiện môi trường giai đoạn 2012-2015.
Trong đó yêu cầu tiến hành điều tra, đánhgiá, xác định mức độ và phạm vi ô nhiễm của 100 khu vực tồn lưu hóa chất bảo vệthực vật gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng; xây dựng dự án đầu tư,trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Theo đó, với kinh phí thực hiện 1.010 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương vàđịa phương, do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, cơ quan chức năng và địaphương phải thực hiện di dời các công trình và người dân sinh sống trên khu vựcô nhiễm.
Các địa phương tiến hành cô lập, cách ly, bao vây ngăn chặn ô nhiễm do hóachất bảo vệ thực vật tồn lưu ra môi trường xung quanh; xây dựng các hệ thống antoàn ngăn ngừa người dân và gia súc tiếp xúc với khu vực bị ô nhiễm.
Đồng thờixử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường đất, nước, không khí đảm bảotiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành về môi trường; cũng như quan trắc, giám sát chấtlượng môi trường trong và sau quá trình xử lý, sau đó lập báo cáo gửi Bộ Tàinguyên và Môi trường để kiểm tra, xác nhận hoàn thành./.