Cả nước chỉ có 30% hồ chứa thuỷ lợi có phương án ứng phó khẩn cấp

Tổng hợp kết quả thực hiện đến trước mùa mưa, lũ năm 2025 cho thấy cả nước chỉ có 9% số hồ thủy lợi được kiểm định an toàn đập, 411 hồ chứa có bản đồ ngập lụt hạ du.

An toàn hồ, đập. (Ảnh minh họa. Nguồn: Vietnam+)
An toàn hồ, đập. (Ảnh minh họa. Nguồn: Vietnam+)

Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cả nước hiện có khoảng 7.315 đập, hồ chứa thủy lợi (trong đó có 592 đập dâng có chiều cao trên 5m và 6.723 hồ chứa thủy lợi) với tổng dung tích trữ khoảng 15 tỷ m³, tạo nguồn nước tưới cho gần 1,1 triệu ha đất nông nghiệp và cấp khoảng 1,5 tỷ m³ nước cho sinh hoạt, công nghiệp cũng như ngành kinh tế khác.

Tuy nhiên, thời gian qua, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gia tăng mưa lũ cực đoan, trái quy luật đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản, đe dọa đến sự an toàn của nhiều hồ, đập - nhất là các hồ chứa đã xây dựng từ lâu.

Trong bối cảnh đó, nhiều ý kiến chuyên gia, cơ quan quản lý cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa, để góp phần đạt mục tiêu bảo đảm tuyệt đối an toàn công trình, cắt lũ hiệu quả cho hạ du, tích nước tối đa phục vụ sản xuất.

Thách thức lớn khi mưa lũ cực đoan thường xuyên

Chia sẻ tại Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước,” chiều 21/11, ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi), cho biết công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi mưa lũ cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.

Ông An cho hay thời gian qua, dù kết quả thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý an toàn đập thực hiện khá tốt, song vẫn còn một số nội dung có tỷ lệ thực hiện thấp, nhất là nhóm hồ chứa vừa và nhỏ.

Đơn cử, hiện mới có 30% số hồ chứa có phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp, 51% số hồ có phương án bảo vệ, 9% số hồ được kiểm định an toàn đập, 31% số hồ có quy trình vận hành, 19% số hồ lắp đặt thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng và chỉ 11% số hồ cắm mốc phạm vi bảo vệ...

Về cơ sở dữ liệu đập, hồ chứa thủy lợi, hầu hết các hồ chứa thuỷ lợi được lưu trữ trên hệ thống, nhưng chỉ có khoảng 900 hồ chứa có thông số kỹ thuật tương đối đầy đủ, các hồ chứa còn lại thiếu nhiều thông tin (chỉ có tên hồ, dung tích và vị trí); chưa có các thông số kỹ thuật của 592 đập dâng.

ong-an.jpg
Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Tại các địa phương, ông An thông tin đến nay, mới có 3 tỉnh trước khi sáp nhập (Quảng Nam, Bình Định, Hà Tĩnh) xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu về phòng chống thiên tai có tích hợp module quản lý hồ chứa nước (thông số kỹ thuật, vị trí, thông tin vận hành, mực nước, lưu lượng khi xả), nhưng các phần mềm cũng chưa có kết nối, liên kết được với cơ sở dữ liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thuỷ lợi; chưa cập nhật với tình hình an toàn hạ du.

“Bên cạnh đó, hầu hết các tỉnh còn lại chưa xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu, công tác lưu trữ dữ liệu hồ chứa thực hiện bằng thủ công. Nhiều số liệu không được cập nhật thường xuyên (như dung tích, sau 30-40 năm khai thác đã thay đổi nhiều, nhiều hồ không có hồ sơ thiết kế),” ông An nói.

Đáng chú ý, hệ thống cảnh báo còn hạn chế, nhiều hồ vẫn chủ yếu thông báo thủ công qua điện thoại hoặc công văn, gây chậm trễ và thiếu tính cập nhật trong điều kiện mưa lũ diễn biến nhanh.

Tổng hợp kết quả thực hiện đến trước mùa mưa, lũ năm 2025 cho thấy mức độ đáp ứng dữ liệu cho ứng dụng công nghệ còn rất hạn chế: Chỉ 19% số hồ lắp đặt thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng; 9% số hồ được kiểm định an toàn đập; 30% số hồ có phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp; cả nước mới có 411 hồ chứa có bản đồ ngập lụt hạ du (dữ liệu quan trọng cho hệ thống cảnh báo sớm).

“Do vậy, công tác tổng hợp nắm bắt cơ sở dữ liệu, vận hành hồ chứa phục vụ quản lý, chỉ đạo điều hành ở cục gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tính kịp thời trong việc hỗ trợ ra quyết định, nhất là thời điểm mưa lũ lớn xảy ra,” ông An nhấn mạnh.

Chuẩn hóa dữ liệu hệ thống hồ chứa để ứng phó với mưa lũ cực đoan

Trước thực trạng trên, ông Phan Tiến An, đại diện Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho rằng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ hỗ trợ vận hành đập, hồ chứa thủy lợi để kịp thời cắt giảm lũ, đảm bảo an toàn vùng hạ du hiện đang là yêu cầu cấp thiết; nhất là trong bối cảnh thiên tai ngày càng diễn biến phức tạp, cơ sở hạ tầng nhiều nơi không đủ khẩu độ thoát lũ.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trên, ông An cho rằng trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.

ong-dung.jpg
Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Quốc Dũng – Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam.

Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế-kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.

"Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt," ông An nêu quan điểm.

Tiến sỹ Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), cũng đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương.

Bên cạnh đó, ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia, mạng lưới đo mưa tự động Vrain và các nền tảng thời tiết như WeatherPlus. Việc này nhằm đảm bảo tất cả đơn vị vận hành đều có cùng một nguồn dữ liệu đầu vào, hạn chế sai số khi tính toán.

Ông Mạnh cũng đề xuất ngành thủy lợi đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích nhanh dữ liệu mưa, dòng chảy và hỗ trợ dự báo. Tuy vậy, ông cũng lưu ý yếu tố quyết định vẫn là con người. Do đó, đội ngũ chuyên gia phải được duy trì trực vận hành mô hình thường xuyên, kể cả trong thời điểm không có lũ, nhằm liên tục kiểm tra, hiệu chỉnh dữ liệu và đảm bảo hệ thống luôn trong trạng thái sẵn sàng.

"Chỉ khi đó chất lượng dự báo mới được cải thiện và việc ứng phó với thiên tai mới thực sự chủ động," ông Mạnh nói.

Đóng góp thêm ý kiến, Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, nhấn mạnh trước yêu cầu ngày càng lớn về an toàn đập, an toàn hạ du và tối ưu khai thác nước trong bối cảnh cực đoan khí hậu, thiên tai khốc liệt, Việt Nam cần một hệ thống hỗ trợ vận hành thông minh hơn, hiện đại hơn, đủ khả năng đáp ứng những thách thức mới của quản lý tài nguyên nước./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục