Giữ nghề dệt chiếu Tà Niên
Cách thành phố Rạch Giá khoảng 10km về phía Quốc lộ 63 là xã Vĩnh Hòa Hiệp,huyện Châu Thành, nơi có một làng nghề dệt chiếu mà người dân trong vùng vẫnquen gọi “chiếu Tà Niên”. Chiếu Tà Niên đã đoạt nhiều huy chương vàng qua nhữngcuộc đấu xảo thời thuộc Pháp và ngày nay chiếu Tà Niên vẫn là mặt hàng nổi tiếngcủa Kiên Giang. Chiếu Tà Niên là vật dụng thân thiết với con người trong cuộcsống hàng ngày, sản phẩm từng có mặt ở nhiều nơi, được khách hàng ưa chuộng.
Nghề dệt chiếu Tà Niên đã có một thời là niềm tự hào của bà con địa phương, giúpbao gia đình thoát cảnh đói nghèo. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường nhiều giađình không duy trì được nghề đã chuyển sang nghề khác và đành gác khung dệt. BàLê Thị Sa (65 tuổi), Tổ trưởng Tổ dệt chiếu Tà Niên, cho biết: “Lúc mới thànhlập tổ có gần 50 hộ, thế nhưng đến giờ chỉ còn 17 hộ còn “mặn” với nghề này.”
Lý giải về vấn đề này, Bà Sa chia sẻ, hiện nay nghề dệt chiếu thu nhập khôngcao nên họ chuyển sang nghề khác. Một đôi chiếu có giá 350.000 đồng, trong khiđó phải bỏ công ngồi dệt (2 người) mất 2 ngày, sau khi trừ chi phí chỉ còn lãi80.000 đồng, trung bình một người chỉ được 20.000 đồng/ngày.
Trong khi, công nhân ở các xí nghiệp chế biến thủy sản mỗi ngày thu nhập100.000 đồng. Và lý do đó đã khiến những người thợ trẻ làm nghề dệt chiếu phảitìm việc khác. Bằng giọng tiếc nuối, bà Sa bộc bạch, nghề này không làm giàu,nhưng những người già như chúng tôi vẫn phải làm để giữ làng nghề có hàng trămnăm của cha ông để lại.
Để làng chiếu Tà Niên không bị mai một, chị Hứa Ngọc Khuê, Phó Chủ tịch Hội Liênhiệp phụ nữ xã Vĩnh Hòa Hiệp cho rằng, cần tổ chức lại quy mô sản xuất, quyhoạch vùng trồng nguyên liệu, tổ chức truyền dạy kỹ thuật sản xuất theo mẫu mãphù hợp với nhu cầu thị trường và ổn định đầu ra cho sản phẩm. Nhiều người kháckhẳng định nghề dệt chiếu Tà Niên chỉ hồi sinh khi được các ngành liên quan củatỉnh Kiên Giang như: Sở Công thương, Hội Liên hiệp phụ nữ, tổ chức hoặc cá nhâncó năng lực liên kết đỡ đầu tiêu thụ sản phẩm, kết hợp khai thác du lịch ở địaphương.
Liêm Sơn phát triển nghề làm nón lá truyền thống
Trong khi không ít nghề truyền thống ngày càng mai một thì nghề làm nón lá ở xãLiêm Sơn (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) vẫn tồn tại và phát triển mạnh, giúphàng trăm hộ dân địa phương thoát nghèo và có cuộc sống khá giả.
Hiện nay, xã Liêm Sơn có hơn 1.000 lao động của gần 600 hộ, chiếm 90% tổng số hộtrong xã tham gia làm nón. Năm 2009, giá trị sản xuất từ nghề nón đạt 12,4 tỷđồng; năm 2010 đạt 15,2 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 2011 đạt 8 tỷ đồng.
Ông Đoàn Ngọc Hiển, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Liêm Sơn cho biết, thời kỳhưng thịnh nhất của làng nghề là vào những năm 70 của thế kỷ trước. Ngày ấyđường sá chưa thuận lợi như bây giờ nhưng nón làm ra đến đâu thuyền bè tấp nậpvề chở đi tiêu thụ hết đến đó.
Nhưng nghề nào cũng có lúc thịnh, lúc suy, nón lá Liêm Sơn cũng không ngoạilệ, hiện nay có nhiều loại mũ với những chất liệu, kiểu dáng đa dạng, phong phúđã khiến nghề làm nón của chúng tôi có phần bị thu hẹp lại. Song không vì thế mànghề truyền thống của quê hương bị thất truyền. Trái lại nó vẫn được người dântrong xã gìn giữ gìn và phát huy.
Thị trường tiêu thụ nón hiện nay tuy có giảm đi nhưng số lượng và giá trị thunhập từ nghề làm nón vẫn tăng qua các năm. Đặc biệt, năm 2008, làng nón Liêm Sơnđã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam công nhận là làng nghề truyền thống. Đâychính là nguồn cổ vũ động viên lớn để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã LiêmSơn duy trì, giữ gìn và phát triển nghề truyền thống.
Song, khó khăn lớn nhấtcủa làng nghề hiện nay là sản phẩm làm ra chưa có nơi tiêu thụ ổn định, thu nhậpcủa người làm nghề chưa cao. Vì thế, xã đã đưa ra những định hướng và đề nghịvới các cấp có thẩm quyền hỗ trợ tăng cường quảng bá giới thiệu, ký kết hợp đồngtiêu thụ nhằm tạo uy tín và chỗ đứng cho sản phẩm nón lá Liêm Sơn, để nghề làmnón không chỉ giúp dân thoát nghèo mà còn là nghề làm giàu cho địa phương.
Vĩnh Long phát triển ngành nghề nông thôn không theo kiểu "phong trào"
Là địa phương hiện có 81 làng có nghề và làng nghề nhưng thực tế việc khôi phụccác làng nghề truyền thống và phát triển làng nghề mới ở tỉnh Vĩnh Long vẫn còngặp nhiều khó khăn. Sản xuất gạch gốm ở các xã Mỹ An, Mỹ Phước, Hòa Tĩnh, NhơnPhú, An Phước, Chánh An (huyện Mang Thít), Thanh Đức (huyện Long Hồ) là mộttrong những làng nghề truyền thống được tỉnh ưu tiên đầu tư bảo tồn và pháttriển với 7 làng nghề đã được công nhận.
Tuy có thị trường tiêu thụ, sử dụng nguồn nguyên liệu sét tại địa phươngnhưng do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh dẫn đếnsản phẩm không đồng nhất, không đảm bảo chất lượng. Do vậy, sau khi được côngnhận làng nghề từ năm 2008 đến nay, công nghệ sản xuất của làng nghề vẫn chưađược đầu tư đổi mới, chưa xây dựng được thương hiệu mạnh.
Năm 2011, sản xuất làng nghề gốm tiếp tục gặp khó khăn từ 120 cơ sở, hiện có48 cơ sở không còn hoạt động. Các làng nghề đan thảm lục bình, se lõi cói, se tơxơ dừa ở các xã Ngãi Tứ, Bình Ninh (huyện Tam Bình), Quới Thiện, Thanh Bình,Trung Thành Đông (huyện Vũng Liêm) tuy có lợi thế nguồn nguyên liệu tại chỗ vàsử dụng nguồn lao động nông nhàn nhưng các cơ sở thiếu vốn đầu tư máy móc sảnxuất.
Trước thực trạng này, tỉnh Vĩnh Long xác định phát triển ngành nghề truyền thốngkhông thực hiện theo “phong trào” mà gắn với khai thác nguồn nguyên liệu, nhânlực địa phương và phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Tỉnh địnhhướng phát triển ngành nghề truyền thống theo 3 nhóm: ngành nghề tập trung pháttriển tốc độ cao; tốc độ trung bình và tốc độ thấp; trong đó nhóm các ngành nghềtập trung phát triển tốc độ cao, dự kiến đến năm 2020 công nhận thêm 18 làngnghề truyền thống như sản xuất gạch ngói, gốm đỏ, se lõi cói, se xơ tơ dừa, sơchế nấm rơm.
Tỉnh cũng quy họach vùng trồng nguyên liệu như vùng trồng cói tậptrung diện tích 700 ha, lục bình, nấm rơm, ưu tiên cho các cơ sở thuê đất đểphát triển nguyên liệu, xây dựng hình thức tổ hợp tác, hội ngành nghề để gắn kếtgiữa làng nghề, nghệ nhân, thợ thủ công và các doanh nghiệp trong việc mở rộngquy mô sản xuất, truyền nghề.
Đối với nhóm ngành nghề truyền thống định hướng phát triển với tốc độ trung bìnhtừ nay đến năm 2020 như chế biến thực phẩm, sơ chế ca cao, sấy nhãn… và nhómngành nghề truyền thống phát triển với tốc độ thấp do thị trường tiêu thụ nộiđịa như sản xuất nước chấm, chằm lá, cưa xẻ gỗ…, tỉnh hỗ trợ khôi phục gắn kếtvới xây dựng mô hình du lịch sinh thái - làng nghề để tạo thêm thị trường tiêuthụ cho sản phẩm.
Cùng với xây dựng website về ngành nghề truyền thống để kêu gọi các dự án đầu tưphát triển ngành nghề, mở ra thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỉnh Vĩnh Long tiếptục huy động nhiều nguồn lực, lồng ghép các chương trình xây dựng hạ tầng kỹthuật, chương trình khuyến công đào tạo nguồn nhân lực, tay nghề để hỗ trợ cáclàng nghề, ngành nghề truyền thống nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóatrên thị trường, mở rộng quy mô, phát triển sản xuất kinh doanh bền vững./.