Các ngân hàng Trung ương hỗ trợ nền kinh tế bằng cách nào?

Các ngân hàng trung ương thực hiện các biện pháp can thiệp sớm nhằm kích thích hoạt động kinh tế đang có dấu hiệu chậm lại và mở đường cho các chính sách thuế tham vọng hơn.
Các ngân hàng Trung ương hỗ trợ nền kinh tế bằng cách nào? ảnh 1Ngân hàng Dự trữ Australia - ngân hàng trung ương của Australia. (Nguồn: Bloomberg)

Trong những tháng gần đây, nhiều ngân hàng trung ương đã tiến hành hạ lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng - vốn đang bị suy giảm - và lạm phát đang suy yếu trong bối cảnh chiến tranh thương mại và công nghệ.

Sau đây là phân tích trên tờ Les Echos (Pháp) số ra gần đây:

Cũng giống như năm 2008, "làn sóng" một lần nữa được khởi nguồn từ khu vực Thái Bình Dương khi các Ngân hàng Trung ương Australia và New Zealand lần lượt hạ lãi suất chủ chốt, trước vài tháng so với các ngân hàng phương Tây.

Christopher Dembik, nhà kinh tế tại Ngân hàng Saxo, nhận định: "Đây là những dấu hiệu rõ ràng của một xu hướng sẽ còn được tiếp tục tại các Ngân hàng Trung ương."

Nguồn gốc của các biện pháp này không phải xuất phát từ một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà do một loạt nhân tố đang ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của cả các nước phát triển và mới nổi.

Theo Thống đốc Ngân hàng Trung ương Australia, tâm lý lo ngại trước xung đột thương mại và công nghệ đang ảnh hưởng đến đầu tư và làm gia tăng các rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu.

Liên tiếp trong tháng 6/2019 và tháng 7/2019, Ngân hàng Trung ương Australia đã hạ 0,25% lãi suất chủ chốt xuống còn 1% nhằm xoa dịu các lo ngại trước sự tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc, đối tác thương mại chính của Australia.

Biện pháp này cũng đồng thời để đối phó với khủng hoảng trên thị trường bất động sản và tình trạng giảm chi tiêu của các hộ gia đình.

Ngân hàng Trung ương New Zealand cũng đã hạ lãi suất chủ chốt xuống mức 1,25% và có thể sẽ tiếp tục thực hiện một đợt hạ lãi suất nữa trong tháng 8 này, trong bối cảnh tâm lý ảm đạm đang bao phủ các doanh nghiệp địa phương và thị trường gỗ đang bị chững lại.

Ngân hàng Trung ương Ấn Độ cũng đi theo xu hướng này và hạ 0,25% lãi suất chủ chốt xuống còn 5,75% hồi đầu tháng 6/2019, trong bối cảnh tăng trưởng quý 1 ở mức thấp nhất trong 4 năm qua (5,8%).

Các Ngân hàng Trung ương của Malaysia, Philippines, Indonesia, Hàn Quốc và Nam Phi cũng có các biện pháp tương tự.

Vào cuối tháng Bảy vừa qua, làn sóng hạ lãi suất đã lan sang các nước phương Tây. Thổ Nhĩ Kỳ hạ lãi suất chủ chốt từ 24% xuống 19,75%. Đây là lần đầu tiên hạ lãi suất ở mức 4,25% kể từ năm 2015.

Thống đốc mới của Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ Murat Uysal cho rằng sự sụt giảm lạm phát tại Thổ Nhĩ Kỳ và các chính sách hỗ trợ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) là lý do khiến Thổ Nhĩ Kỳ hành động.

Ngày 31/7, Fed đã thông báo giảm 0,25% lãi suất cơ bản xuống còn từ 2% - 2,25%. ECB dự kiến cũng sẽ có các biện pháp tương tự trong thời gian tới.

[Sự suy giảm của ngành chế tạo tác động xấu đến kinh tế Eurozone]

Các ngân hàng trung ương thực hiện các biện pháp can thiệp sớm nhằm kích thích hoạt động kinh tế đang có dấu hiệu chậm lại và mở đường cho các chính sách thuế tham vọng hơn. Tuy nhiên, các biện pháp này không phải là không có rủi ro. Chúng có thể khiến các cổ phiếu tài chính tăng giá và tạo ra các bong bóng mới, tăng khó khăn cho ngành ngân hàng, hiện đã phải chịu mức lãi suất rất thấp, thậm chí là ở mức âm, và lấy đi các chỗ dựa quý giá trong trường hợp một cuộc khủng hoảng mới nổ ra.

Không phải tất cả các ngân hàng trung ương đều đi theo xu thế trên, ví dụ như Trung Quốc ngay cả khi tăng trưởng của nước này giảm xuống 6,2%, hay Canada khi hoạt động kinh tế đang khởi sắc.

Trong khi đó, do tác động của chính sách của Mỹ và châu Âu đối với đồng yên, Nhật Bản đã quyết định duy trì chính sách tiền tệ cực kỳ ổn định của nước này: lãi suất âm đối với một số tiền gửi của ngân hàng, kế hoạch lớn nhằm mua lại tài sản. Tuy nhiên, nước này cũng để ngỏ khả năng sẽ hành động, đặc biệt nếu đồng yên tăng giá quá nhiều so với với đồng USD và ảnh hưởng đến xuất khẩu của Nhật Bản.

Đối với Anh, phiên họp của Ủy ban chính sách tiền tệ hôm 1/8 được theo dõi chặt chẽ khi chỉ có Ngân hàng Trung ương Anh có xu hướng ủng hộ tăng lãi suất. Tuy nhiên, đây là điều khó thực hiện bởi tân Thủ tướng Boris Johnson là người sẵn sàng để Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU) mà không có thỏa thuận, và chính điều đó khiến giá trị của đồng bảng Anh suy giảm./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục