Các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc “gian lận xuất xứ,” tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng. Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43/CP tại cửa khẩu, Thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm "đội lốt" hàng Việt Nam như đã rải rác xảy ra trong thời gian qua.
Đây là thông tin được Thứ trưởng Trần Quốc Khánh đưa ra tại “Hội thảo xin ý kiến về dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam,” do Bộ Công Thương tổ chức ngày 25/9, tại Hà Nội.
Theo ông Khánh, về cơ bản, dự thảo Thông tư này được xây dựng phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định trong nước về xuất xứ hàng hóa, đảm bảo sự tương thích giữa hàng hóa lưu thông trong nước với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Ông cũng khẳng định, Thông tư mới sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43/CP.
“Thông tư không chỉ giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, mà còn giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ,” lãnh đạo Bộ Công Thương nói.
[Nhập nhèm hàng hóa mác 'Made in Viet Nam' trên thị trường]
Tại hội thảo, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, cho tới nay, Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về xuất xứ hàng hóa, trong đó có việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là có xuất xứ Việt Nam.
Tuy nhiên, các quy định này mới chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu, giúp hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu theo cam kết tại các hiệp định thương mại tự do hoặc phục vụ các mục tiêu khác của quản lý ngoại thương. Với hàng hóa sản xuất, bao gồm cả sản xuất từ đầu vào nhập khẩu, và sau đó lưu thông trong nước, hiện chưa có quy định như thế nào thì được gắn nhãn "sản phẩm của Việt Nam" hay "sản xuất tại Việt Nam."
Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các quy định về việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là “sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam” đã khiến nhiều tổ chức và cá nhân lúng túng khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ trên nhãn sản phẩm theo quy định của Nghị định 43.
Thực tế, một số mặt hàng dù chỉ trải qua các công đoạn gia công, lắp ráp, chế biến đơn giản tại Việt Nam nhưng cũng gắn nhãn "sản xuất tại Việt Nam" khiến người tiêu dùng thắc mắc, thậm chí bức xúc nhưng các cơ quan chức năng lại không có căn cứ để phân xử.
Do vậy, theo ông Hải, để khắc phục các bất cập đó, cần xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật về việc như thế nào thì một sản phẩm, hàng hóa được coi là “sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam.”
“Thông tư này đưa ra chuẩn mực để giúp doanh nghiệp có thể soi vào đánh giá với hàm lượng, quy trình sản xuất như vậy, doanh nghiệp có thể hoàn toàn tự tin dán nhãn hàng sản xuất tại Việt Nam hay chưa. Doanh nghiệp có thể lấy Thông tư này làm thước đo chuẩn để biết được như thế nào thì một sản phẩm, hàng hóa được coi là 'sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam' hay 'sản xuất tại Việt Nam'," ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh.
Cũng tại Hội thảo, nhiều ý kiến góp ý của từ các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp với các góc nhìn đa chiều về mức độ cần thiết phải ban hành Thông tư, nội dung của Thông tư và về các tác động có thể có đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Từ những ý kiến trên, đại diện Bộ Công Thương cho biết, sẽ tiếp thu và có những chỉnh sửa phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Ngoài ra, với những vấn đề vượt quá phạm vi Thông tư, Bộ Công Thương sẽ cân nhắc báo cáo xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ trước khi Thông tư ban hành./.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tạo sự minh bạch thông tin đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường, ngày 14/4/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hóa. Theo đó, mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam hoặc nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam đều phải ghi nhãn cho hàng hóa, trừ một số trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 1 của Nghị định. |