Thị trường tuần qua: Giá các loại nông sản kỳ hạn của Mỹ đều tăng

Giá lúa mỳ giao cùng kỳ hạn tăng 33 xu Mỹ (3,22%) lên 10,5825 USD/bushel. Còn giá đậu tương giao tháng 5/2022 tăng 43,5 xu Mỹ (2,64%) lên 16,89 USD/bushel.
Thị trường tuần qua: Giá các loại nông sản kỳ hạn của Mỹ đều tăng ảnh 1Nông dân thu hoạch lúa mỳ trên cánh đồng. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Trong phiên giao dịch ngày 8/4, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago (Mỹ) đều tăng, với giá lúa mỳ tăng mạnh.

Chốt phiên này, giá ngô giao tháng 7/2022 tăng 10,5 xu Mỹ (1,4%) lên 7,6075 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao cùng kỳ hạn tăng 33 xu Mỹ (3,22%) lên 10,5825 USD/bushel. Còn giá đậu tương giao tháng 5/2022 tăng 43,5 xu Mỹ (2,64%) lên 16,89 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago cho biết Báo cáo dự báo cung và cầu nông nghiệp thế giới (WASDE) tháng Tư do Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) thông báo ngày 8/4 tỏ ra cẩn trọng khi hạ mức dự báo về vụ đậu tương của Brazil và nâng ước tính về hoạt động xuất khẩu ngô và đậu tương của Mỹ trong giai đoạn 2021/2022.

Báo cáo cho thấy lượng ngô trữ kho cuối niên vụ 2021-2022 của Mỹ ở mức 1,440 triệu bushel.

[Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của VN trong quý 1]

Ngoài ra, báo cáo cũng nâng ước tính sản lượng ngô niên vụ này ở Brazil tăng thêm 2 triệu tấn, lên 116 triệu tấn, trong khi con số tương ứng của Argentina dự kiến ở mức 53 triệu tấn, tương tự dự báo trước đó.

Trong khi đó, báo cáo WASDE ước tính nhập khẩu đậu tương của Trung Quốc giai đoạn 2021-2022 xuống còn 91 triệu tấn. Lượng đậu tương trữ kho thế giới giai đoạn 2021-2022 giảm xuống còn 89,6 triệu tấn.

Thị trường gạo châu Á

Giá gạo xuất khẩu tại Ấn Độ giảm trong tuần này do nguồn cung tăng sau khi chính phủ mở rộng kế hoạch cung cấp ngũ cốc trợ giá, trong khi xuất khẩu gạo ở Việt Nam và Thái Lan hầu như không đổi trong bối cảnh nhu cầu giảm và sản lượng tăng.

Gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức 365-369 USD/tấn trong tuần này, giảm so với mức 367-370 USD/tấn của tuần trước.

Một nhà xuất khẩu tại Kakinada bang Andhra Pradesh, miền Nam Ấn Độ cho biết, trên thị trường mở, nguồn cung đã được cải thiện khi chính phủ bắt đầu phân phát gạo và lúa mỳ miễn phí cho người dân nghèo.

Giá gạo 5% tấm của Thái Lan được giao dịch ở mức 408- 412 USD/tấn so với mức 408-410 USD/tấn của tuần trước.

Các thương nhân cho biết nhu cầu đã tăng nhẹ nhưng không đủ để tác động đến giá do chi phí vận chuyển và hậu cần giảm nhẹ.

Nhiều thương lái cho biết thêm, gạo từ các vụ thu hoạch gần đây cũng được đưa vào thị trường có thể do sự ổn định sau cú sốc ban đầu từ cuộc chiến ở châu Âu. Nhu cầu thức ăn chăn nuôi trên thị trường quốc tế và trong nước cũng ổn định.

Gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 400-415 USD/tấn trong ngày 7/4, không thay đổi so với một tuần trước.

Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết nguồn cung đang tăng lên, nhưng hoạt động xuất khẩu trầm lắng do chi phí vận chuyển rất cao.

Thị trường cà phê thế giới

Trong phiên giao dịch càphê ngày 9/4, giá càphê thế giới trên hai sàn tại London và New York đều trong xu hướng hồi phục tăng điểm.

Kết thúc phiên giao dịch mới nhất, giá càphê Robusta trên sàn London giao tháng 5/2022 tăng 27 USD/tấn lên mức 2.091 USD/tấn, giao tháng 7/2022 tăng 30 USD/tấn lên mức 2.096 USD/tấn. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.

Còn giá càphê Arabica trên sàn New York giao tháng 5/2022 5,50 xu Mỹ, lên 231,65 xu Mỹ/lb, và kỳ hạn giao tháng Bảy tăng 5,40 xu Mỹ/lb, lên 231,85 xu Mỹ/lb (1 lb = 0,4535 kg). Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.

Tại Việt Nam, giá càphê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên tăng 500-600 đồng, lên dao dộng trong khung 40.100-40.700 đồng/kg.

Báo cáo thương mại tháng Hai của Tổ chức Càphê Quốc tế (ICO) cho thấy xuất khẩu càphê toàn cầu trong 5 tháng đầu của niên vụ càphê hiện tại 2021/2022 đã giảm 0,8% so với cùng kỳ niên vụ trước, xuống chỉ đạt 53,2 triệu bao.

Đồng thời ICO cũng báo cáo sản lượng càphê toàn cầu trong niên vụ 2021/2022 đạt tổng cộng 167, 2 triệu bao, giảm 2,10% so với niên vụ trước đó, chủ yếu là do sản lượng càphê Arabica của Brazil theo chu kỳ “hai năm một” cho sản lượng thấp./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục