Sửa Luật Thuế giá trị gia tăng: Bỏ 12 loại hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế

12 loại hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng gồm: Phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; lưu ký chứng khoán...

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) hiện nay vẫn giữ nguyên 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng nhưng đã thu hẹp các loại hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng trong 26 nhóm này.

Theo đó, dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) đã bỏ 12 loại hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.

Thu gọn đối tượng chịu thuế

Tại phiên họp chiều 17/6, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết qua 15 năm, Luật Thuế giá trị gia tăng đã có những thay đổi theo đúng định hướng cải cách chính sách thuế của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020; giảm bớt thủ tục hành chính cho người nộp thuế và cơ quan thuế, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Bên cạnh đó, Luật Thuế giá trị gia tăng cũng đã góp phần tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, chú trọng đến khuyến khích phát triển nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất nông nghiệp; giảm chi phí đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu góp phần vào đảm bảo an sinh xã hội.

Đặc biệt, Luật Thuế giá trị gia tăng đã góp phần quan trọng, ổn định, đảm bảo tỉ lệ động viên hợp lý cho ngân sách nhà nước; cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bền vững, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn thu từ tài nguyên khoáng sản (dầu thô) và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Hồ Đức Phớc, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, do sự biến động nhanh của kinh tế-chính trị thế giới và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, việc triển khai thực hiện chính sách thuế giá trị gia tăng cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Cụ thể, số lượng nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế còn nhiều (26 nhóm) và không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng.

Việc áp dụng các mức thuế suất (hiện nay gồm 3 mức: 0%, 5% và 10%) đối với các nhóm mặt hàng còn chưa phù hợp. Đối tượng áp dụng mức thuế suất 5% còn nhiều (14 nhóm hàng hóa, dịch vụ) chưa phù hợp với định hướng cải cách hệ thống thuế, tiến tới áp dụng một mức thuế suất phổ thông.

“Việc xác định thuế suất đối với một số hàng hóa dựa vào mục đích sử dụng gây vướng mắc cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế,” Bộ trưởng Hồ Đức Phớc nói.

Bên cạnh đó, đối với doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng có mức từ 100 triệu đồng trở xuống/năm cần phải nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp mức biến động của giá và một số yếu tố khác cho phù hợp bối cảnh kinh tế - xã hội. Quy định về giá tính thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản còn có cách hiểu khác nhau giữa người nộp thuế và cơ quan thuế…

Sẽ quy định mức doanh thu của hộ kinh doanh

Trước thực tế trên, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) sẽ hoàn thiện quy định về chính sách thuế giá trị gia tăng để bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; đảm bảo thu đúng thu đủ, đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước.

ttxvn_thue_gia_tri_gia_tang_0205-1.jpg
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)

Về các nội dung sửa đổi, bổ sung theo đề xuất, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết dự thảo vẫn giữ nguyên 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng nhưng đã thu hẹp các hàng hóa, dịch vụ.

Theo đó dự thảo đã bỏ 12 loại hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng gồm: Phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; lưu ký chứng khoán; dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; dịch vụ bưu chính công ích; dịch vụ viễn thông công ích; dịch vụ internet phổ cập theo chương trình của Chính phủ; dịch vụ duy trì vườn thú; dịch vụ duy trì vườn hoa, công viên; dịch vụ duy trì cây xanh đường phố; dịch vụ chiếu sáng công cộng.

Dự thảo luật cũng bổ sung quy định không được áp dụng thuế suất 0% đối với sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên các nền tảng số theo quy định của Chính phủ để đảm bảo tính linh hoạt cho việc xác định sản phẩm, dịch vụ này được tiêu dùng tại Việt Nam hay ở nước ngoài tại thời điểm cung cấp.

Ngoài ra, để không gây xáo trộn đối với các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán đã được ấn định thuế từ đầu năm, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết Chính phủ sẽ trình Quốc hội quy định mức doanh thu của hộ, cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng không chịu thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.

Báo cáo thẩm tra tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết cơ quan này nhất trí về sự cần thiết sửa đổi luật để giải quyết các bất cập trong thực tiễn cũng như hoàn thiện chính sách thu, phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030.

Liên quan đến quy định không thu thuế giá trị gia tăng đối với một số loại hàng hoá nhập khẩu, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho biết dự thảo luật bổ sung quy định quà biếu, quà tặng, tài sản di chuyển, hàng biên mậu trong định mức miễn thuế nhập khẩu theo pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.

Theo Ủy ban Tài chính - Ngân sách, mặc dù không được quy định trong luật song trên thực tế, việc miễn thuế giá trị gia tăng gắn với miễn thuế nhập khẩu hiện cũng được thực hiện đối với hàng hoá nhập khẩu có giá trị nhỏ dưới 1 triệu đồng gửi qua chuyển phát nhanh (theo Quyết định số 78/2010/QĐ-TTg)./.

Dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) gồm 4 Chương, 18 Điều

Chương I. Những quy định chung, gồm 05 điều (từ Điều 1 đến Điều 5).

Chương II. Căn cứ và phương pháp tính thuế, gồm 07 điều (từ Điều 6 đến Điều 12).

Chương III. Khấu trừ, hoàn thuế, gồm 04 điều (từ Điều 13 đến Điều 16).

Chương IV. Điều khoản thi hành, gồm 02 điều (Điều 17 và Điều 18).

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục